Mục
tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng:
1.
Trình bày được sự khuếch tán qua màng tế bào.
2.
Trình bày được các hình thức vận chuyển tích cực qua màng.
3.
Trình bày được hình thức vận chuyển qua một lớp tế bào.
4. Trình bày được hiện tượng thực bào, ẩm bào,
tiêu hóa chất trong tế bào và xuất bào.
Cơ
thể con người được cấu tạo từ muôn vàn tế bào. Tế bào là đơn vị cấu tạo và là
đơn vị chức năng của cơ thể sinh vật cũng như
của cơ thể người. Cơ thể người có từ 75 đến 100 triệu triệu tế bào. Muốn
hiểu chức năng sinh lý của các cơ quan trong cơ thể, trước hết cần tìm hiểu cấu
trúc và chức năng của tế bào. Mọi hoạt động chức năng của cơ thể đều có cơ sở
tại tế bào và các rối loạn chức năng cũng có cơ sở ở tế bào.
Tế
bào có màng, bào tương, các bào quan và nhân.
Tế
bào có những chức năng chủ yếu là:
-
Thông tin: Tiếp nhận, xử lý và truyền tin.
-
Vận chuyển vật chất qua màng tế bào.
-
Tiêu hóa chất: Nhập bào, tiêu hóa và xuất bào.
- Tổng
hợp protein: Tổng hợp protein và xuất bào.
- Sinh
năng lượng.
Bài
này tập trung vào hai vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với chức năng sinh lý
của các cơ quan và của toàn cơ thể, đó là:
- Màng
tế bào và chức năng vận chuyển vật chất qua màng.
- Hiện
tượng nhập bào, tiêu hóa chất và xuất bào.
1. ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC - CHỨC NĂNG CỦA MÀNG TẾ BÀO
Mỗi
tế bào được bao bọc bởi một màng bào
tương (plasma membrane ), màng này ngăn cách
các thành phần của tế bào với
dịch ngoại bào. Màng tế bào có tính thấm chọn lọc cao, nó cho phép các chất
dinh dưỡng đi vào tế bào và giải phóng các sản phẩm của tế bào ra ngoài. Nhờ
tính thấm chọn lọc này mà thành phần các chất trong bào tương rất khác với
thành phần của dịch ngoại bào. Tính thấm chọn lọc của màng phụ thuộc vào các cơ
chế trao đổi chất qua màng tế bào. Mặt khác, trên bề mặt của màng tế bào có
nhiều vị trí gắn kết với các chất hóa học đặc hiệu do các tế bào khác sản xuất,
làm cho màng tế bào có vai trò quan trọng trong sự kết nối giữa các tế bào với
nhau.
Màng
là bao hàm cả màng bao bọc xung quanh tế bào và các màng bên trong tế bào, bao
bọc nhân và các bào quan. Các loại màng này đều có những đặc điểm cấu trúc - chức năng giống nhau, đó là một cấu trúc mỏng, rất
đàn hồi, dày từ 7,5 – 10 nm (1nm =10-9
mét), được cấu tạo bởi các thành phần là protein, glucid và lipid, chủ yếu là
protein và lipid (hình 3.1).
Thành
phần lipid chiếm gần 50% khối lượng màng. Thành
phần protein cũng chiếm khoảng
50% khối lượng màng, dao động từ 18% ở màng tế bào Schwann (tế bào đệm của hệ
thần kinh) tới 76% ở màng ty thể. Tỷ lệ giữa hai thành phần lipid và protein
của màng tế bào phản ánh chức năng của tế bào. Ví dụ: Thành phần lipid cao (82%) ở màng tế bào Schwann có myelin cho
thấy vai trò của tế bào Schwann là bảo vệ chắc chắn và cách điện cho sợi trục
của tế bào thần kinh. Thành phần protein cao ở màng ty thể (76%) cho thấy ty
thể chứa đựng nhiều enzym và những protein sống khác phục vụ cho chức năng
chuyển hóa năng lượng của cơ quan này.
Hình 3.1. Cấu trúc
màng tế bào.
PX: Protein xuyên;
PR:Protein rìa.
1.1.
Lớp lipid kép của màng tế bào
Thành
phần lipid tạo nên lớp lipid kép của màng tế bào. Lớp lipid kép có đặc điểm là
rất mỏng, mềm mại, có thể uốn khúc, trượt đi trượt lại và dễ biến
dạng.Tính chất mềm mại và dễ biến dạng làm cho nó có khả năng hòa màng.
Hiện tượng hòa màng xảy ra ở cả màng tế bào và ở màng các bào quan, thường gặp
trong qúa trình tạo ra các túi vận chuyển, túi tiêu hóa,túi thực bào... Lớp
lipid kép là một lá mỡ mỏng liên tục bao quanh tế bào hoặc bào quan, bề dầy chỉ
có hai phân tử là phospholipid và cholesterol. Phospholipid có hai đầu, một đầu
là gốc phosphat ưa nước và một đầu là gốc acid béo kỵ nước. Cholesterol cũng có
hai đầu, một đầu là gốc hydroxyl ưa nước và một đầu là nhân steroid kỵ nước.
Đầu kỵ nước của hai phân tử này bị dịch gian bào và dịch nội bào đẩy, nên quay
vào trong, gặp nhau, hấp dẫn nhau và nằm ở trung tâm của màng. Đầu ưa nước nằm
ở hai phía của màng, tiếp xúc với dịch ngoại bào và dịch nội bào.
1.2.
Các protein của màng tế bào
Protein
là thành phần quan trọng của các màng sinh học. Các khối protein nằm xen giữa lớp lipid kép. Chúng thuộc loại protein dạng cầu
hoặc có dạng chữ S, hầu hết có bản chất là glycoprotein. Có hai loại
protein: (1) Protein trung tâm, nằm xuyên qua suốt chiều dày của màng tế bào,
hai đầu thò ra hai bên màng. (2) Protein ngoại vi, chỉ bám vào một phía
của màng. Hai loại protein này có cấu tạo và chức năng khác nhau.
1.2.1.
Protein xuyên: Protein xuyên thường có
kích thước phân tử lớn. Có các loại protein xuyên là:
- Nhiều
phân tử protein xuyên có các kênh (các
lỗ) xuyên suốt khối protein, qua các kênh này các chất tan trong nước, đặc biệt
là các ion có thể khuếch tán qua lại
giữa dịch ngọai bào và dịch nội bào. Các kênh này có các cổng đóng và
mở. Cổng của các kênh hoạt động có tính chọn lọc, cho phép một chất khuếch tán
qua ưu tiên hơn chất khác. Có hai loại cổng: Một loại cổng đóng mở theo điện
thế (voltage-gated) và một loại cổng đóng mở theo chất kết nối (ligand-gated).
-
Một số phân tử protein xuyên là protein mang (carrier) làm nhiệm vụ vận chuyển
vật chất. Có những protein vận chuyển vật chất thuận chiều với bậc thang điện
hóa, tức là đi từ nơi có nồng độ, áp suất, điện thế cao đến nơi có nồng độ, áp
suất, điện thế thấp. Có những protein mang lại vận chuyển vật chất ngược chiều
với bậc thang điện hóa, tức là vận chuyển vật chất từ nơi có nồng độ, áp suất, điện thế thấp đến
nơi có nồng độ, áp suất, điện thế cao. Có những protein mang chỉ vận chuyển một
chất duy nhất (uniport), cũng có những protein mang lại vận chuyển được hai
chất cùng một lúc theo cùng một chiều, gọi là đồng vận chuyển (symport) và cũng
có protein mang vận chuyển hai chất cùng một lúc nhưng theo hai chiều đối ngược
nhau, gọi là vận chuyển ngược (antiport).
-
Một số phân tử protein xuyên có hoạt tính men.
1.2.2.
Protein ngoại vi (protein rìa): Protein ngoại vi thường có
phân tử nhỏ hơn protein xuyên, bám vào đầu phía trong của protein xuyên. Những
phân tử protein ngoại vi có chức năng và hoạt tính hầu như hoàn toàn là men.
1.3.
Những carbohydrat của màng tế bào
Thành
phần glucid (carbohydrate) chiếm khoảng
2% đến 10% khối lượng của màng. Tuy carbohydrat chiếm một tỷ lệ ít ở màng nhưng
nó có chức năng quan trọng trong sinh lý màng tế bào. Hầu hết carbohydrat hoặc
ở dạng kết hợp với protein màng tạo
thành glycoprotein, hoặc kết hợp với
lipid trong lớp lipid kép tạo thành glycolipid. Toàn bộ mặt ngoài của màng tế
bào có một vỏ glucid lỏng lẻo, gọi là glycocalyx.
Chức năng của carbohydrat màng là: (1) Tích điện âm nên thường đẩy những vật tích điện âm. (2)
Lớp glycocalyx của tế bào này gắn với glycocalyx của tế bào khác làm cho các tế
bào dính nhau. (3) Một số carbohydrat nằm trên bề mặt màng tế bào có
tác dụng như receptor có khả năng gắn kết với những chất đặc hiệu như hormon.
(4) Một số carbohydrat màng tham gia phản ứng miễn dịch.
2. CÁC HÌNH THỨC VẬN CHUYỂN VẬT CHẤT QUA MÀNG
TẾ BÀO
Tế
bào sống luôn luôn trao đổi vật chất với môi trường xung quanh nó là dịch ngoại
bào.Thành phần của các chất trong dịch nội bào và dịch ngoại bào rất khác nhau.
Ví dụ ở dịch ngoại bào có nồng độ các ion Na+, Ca2+, Cl-...
cao hơn nhiều lần so với các ion này ở dịch nội bào, ngược lại ở dịch nội bào
lại có nồng độ ion K+, phosphat, sulphat... cao hơn ở dịch ngoại
bào. Sự khác biệt về nồng độ các chất ở dịch nội bào và dịch ngoại bào là rất
quan trọng đối với sự sống của tế bào. Có sự khác biệt này là do các cơ chế vận
chuyển vật chất qua màng tế bào tạo ra.
Các
chất được vận chuyển hoặc qua lớp lipid kép hoặc qua thành phần protein của
màng đều theo một trong hai qúa trình cơ bản là: Khuếch tán thụ động và vận chuyển tích cực.
-
Khuếch tán thụ động là hình thức vận chuyển vật chất thuận chiều
bậc thang điện hóa (electrochemical
gradient), tức là vật chất đi từ nơi có nồng độ, áp suất, điện thế cao đến
nơi có nồng độ, áp suất, điện thế thấp.
Quá trình chuyển động này nhờ năng lượng tự nhiên sẵn có của vận động động học của vật chất (còn gọi là chuyển động nhiệt). Do không
cần năng lượng từ hóa năng (ATP) của tế
bào nên hình thức vận chuyển này được coi là vận chuyển thụ động (khuếch tán thụ động).
-
Vận chuyển tích cực là hình thức vận chuyển các chất ngược chiều
bậc thang điện hóa. Do vận chuyển vật chất ngược với bậc thang năng lượng (ngược bậc thang điện hóa) nên hình thức vận chuyển này nhất thiết phải sử
dụng năng lượng từ bên ngoài và cần có chất mang (protein mang).
2.1.
Hình thức vận chuyển khuếch tán thụ động
Các
phân tử, các hạt vật chất (có thể là ion, nước, chất tan trong nước, chất tan
trong các dịch nội bào, ngoại bào, chất khí) chuyển động từ nơi có nồng độ cao
đến nơi có nồng độ thấp hơn nhờ năng lượng của chuyển động nhiệt là hiện tượng
khuếch tán thụ động.
Có
hai hình thức khuếch tán thụ động là khuếch tán đơn thuần (simple diffusion) và
khuếch tán
được thuận hóa (facilitated
diffusion), còn gọi là khuếch tán được tăng cường hay khuếch tán có gia tốc.
Trong khuếch tán đơn thuần, mức độ khuếch tán được
xác định bởi số lượng chất được vận chuyển, tốc độ chuyển động nhiệt và số
lượng các kênh protein trong màng tế bào.
Trong khuếch tán được thuận hoá cần phải có protein
mang để gắn với các ion hoặc phân tử được vận chuyển và đưa chúng qua màng.
2.1.1.
Khuếch tán đơn thuần qua lớp lipid kép
Yếu
tố quan trọng nhất để một chất được vận chuyển qua lớp lipid kép của màng là độ
hòa tan trong mỡ của chất đó.
-
Các chất có bản chất là lipid được vận chuyển dễ dàng qua lớp lipid kép.
-
Các chất không phải là lipid nhưng tan trong lipid (mỡ) cũng được vận chuyển
qua lớp lipid kép rất nhanh như khí oxy,
nitơ, CO2, các vitamin tan trong dầu
(như vitamin A, D, E, K), rượu, cồn. Các chất này tiếp xúc với màng,
chúng lập tức hòa tan vào thành phần lipid kép và tiếp tục khuếch tán qua màng.
Tốc
độ khuếch tán qua màng của một chất tỷ lệ thuận với độ hòa tan của chất đó
trong mỡ.
- Nước và các phân tử không tan trong lipid: Mặc dù
nước không hòa tan...Link tải để đọc bản đầy đủ: http://adf.ly/1fevrL
0 nhận xét:
Post a Comment