LINK TẢI BẢN ĐỌC ĐẦY ĐỦ: http://shink.in/AkeW8
CÁCH DOWNLOAD: CLICK VÀO LINK Ở TRÊN SAU ĐÓ CLICK VÀO Ô "TÔI KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI MÁY" VÀ TRẢ LỜI 1 CÂU HỎI RỒI CHỜ 3s VÀ BẤM VÀO Ô "GET LINK" VÀI LẦN ĐỂ TẢI VỀ
CÁCH DOWNLOAD: CLICK VÀO LINK Ở TRÊN SAU ĐÓ CLICK VÀO Ô "TÔI KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI MÁY" VÀ TRẢ LỜI 1 CÂU HỎI RỒI CHỜ 3s VÀ BẤM VÀO Ô "GET LINK" VÀI LẦN ĐỂ TẢI VỀ
Mục tiêu học tập: Sau
khi học xong bài này, sinh viên có khả năng:
1. Trình bày được đặc điểm cấu tạo của hệ thần
kinh tự chủ
2. Trình bày được chức năng và điều hòa chức năng
hệ thần kinh tự chủ.
Phần thần kinh trung ương kiểm soát chức năng của các
tạng được gọi là hệ thần kinh tự chủ (còn được gọi là hệ thần kinh thực vật, hệ
thần kinh dinh dưỡng, hệ thần kinh tạng). Hệ này điều hoà huyết áp động mạch,
cử động và bài tiết dịch của ống tiêu hoá, bài tiết một số hormon, co cơ bàng
quang, tiết mồ hôi, thân nhiệt và nhiều hoạt động khác, trong đó có những hoạt
động hoàn toàn phụ thuộc vào hệ thần kinh tự chủ và có những hoạt động phụ
thuộc một phần vào hoạt động của hệ này. Thông qua những hoạt động này, hệ thần
kinh tự chủ đóng vai trò rất quan trọng trong điều hoà nội môi và giúp cơ thể
thích nghi với sự thay đổi của môi trường. Hệ thần kinh tự chủ có các trung tâm
nằm ở tuỷ sống, thân não và vùng dưới đồi (hypothalamus). Các phần của vỏ não,
đặc biệt là vỏ hệ limbic có ảnh hưởng lên hoạt động của hệ thần kinh tự chủ.
Thường thì hệ thần kinh tự chủ cũng hoạt động trên cơ sở các phản xạ tạng.
1. ĐẶC ĐIỂM
GIẢI PHẪU – CHỨC NĂNG CỦA HỆ THẦN KINH TỰ CHỦ
1.1. Hệ giao cảm
Hệ giao cảm có hai chuỗi hạch giao cảm ở hai bên cột
tuỷ sống, hai hạch trước cột sống (hạch tạng và hạch hạ vị) và các sợi thần
kinh đi từ các hạch tới các tạng khác nhau. Các dây giao cảm xuất phát từ tuỷ ở
các đốt từ lưng 1 (L1) đến thắt lưng 2 (TL2) tới các hạch rồi từ các hạch tới
các tạng hay mô mà nó chi phối (hình 18.1).
Từ tuỷ sống tới mô chịu kích thích có hai nơron giao
cảm: Nơron trước hạch (sợi tiền hạch) và nơron sau hạch (sợi hậu hạch). Thân
của nơron tiền hạch nằm ở sừng bên của chất xám tuỷ sống và sợi trục đi ra theo
rễ trước của tuỷ sống cùng với dây thần kinh tuỷ sống, theo nhánh thông trắng
tới hạch của chuỗi giao cảm. Từ đây, sợi có thể đi theo một trong ba con đường
sau: 1) Tạo synap với nơron hậu hạch nằm ở trong hạch đó; 2) Đi lên trên hoặc
đi xuống dưới để tạo synap trong một hạch khác của chuỗi hạch; 3) Hoặc đi xa
hơn trong chuỗi hạch rồi qua các sợi giao cảm lan toả khỏi chuỗi hạch và tận
cùng ở hạch trước cột sống. Nơron hậu hạch bắt đầu từ hạch trong chuỗi hạch
hoặc từ hạch trước cột sống. Từ hai nơi này, các sợi hậu hạch đi tới các cơ quan.
Một số sợi hậu hạch giao cảm quay trở lại dây thần
kinh tuỷ sống qua nhánh thông xám ở mọi đốt tuỷ. Các sợi này chi phối mạch máu,
tuyến mồ hôi, cơ dựng lông. Có khoảng 8 % các sợi thần kinh tới cơ vân là các
sợi giao cảm, chứng tỏ chúng có vai trò quan trọng (hình 18.2).
Sự phân bố thần kinh giao cảm tới tạng phụ thuộc vào
vị trí hình thành nên tạng lúc còn là bào thai. Ví dụ, tim nhận nhiều sợi giao
cảm xuất phát từ đốt sống cổ vì tim có nguồn gốc từ cổ của bào thai, các tạng
trong ổ bụng nhận các sợi giao cảm từ các đoạn thấp của ngực vì phần lớn ruột
là xuất phát từ khu vực này. Các sợi giao cảm không phân bố giống như các sợi
thần kinh tuỷ bắt nguồn từ cùng một đốt tuỷ sống. Ví dụ: Các sợi giao cảm xuất phát
từ đốt L1 thường đi lên theo chuỗi hạch tới đầu; từ đốt L2 tới cổ, từ L7, L8,
L9, L10 và L11 tới bụng, từ L12, TL1 và TL2 tới chi dưới.
Các sợi giao cảm tận cùng ở tuỷ thượng thận đi thẳng
từ sừng bên chất xám tuỷ sống mà không dừng và tạo synap ở đâu cả. Tại tuỷ
thượng thận, chúng tận cùng trực tiếp ở các nơron đã biến đổi thành các tế bào
bài tiết adrenalin và noradrenalin vào máu. Về mặt bào thai học thì các tế bào
này có nguồn gốc là mô thần kinh và tương tự như nơron hậu hạch giao cảm. Chúng
có các sợi thần kinh thô sơ và chính các sợi này bài tiết các hormon trên.
Hình 18.1. Sơ đồ hệ thần kinh
tự chủ.
1.2. Hệ phó giao cảm (hình 18.1)
Hình 18.2. Cung phản xạ giao
cảm và phó giao cảm
Các sợi phó giao cảm rời khỏi hệ thần kinh trung ương
qua các dây thần kinh sọ III, VII, IX, X, các dây thứ hai và thứ ba của đoạn
tuỷ cùng (đôi khi qua cả dây thứ nhất và dây thứ tư). Khoảng 75 % số sợi phó
giao cảm nằm trong dây X và tới toàn bộ vùng lồng ngực và ổ bụng. Các sợi của
dây X tới chi phối tim, phổi, thực quản, dạ dày, toàn bộ ruột non, nửa đầu ruột
già, gan, túi mật, tuỵ và phần trên của niệu quản. Các sợi phó giao cảm trong
dây III tới chi phối cơ co đồng tử, các cơ thể mi của mắt. Các sợi trong dây
VII đi tới tuyến lệ, tuyến mũi, tuyến dưới hàm, các sợi trong dây IX thì tới
tuyến mang tai. Các sợi phó giao cảm ở tuỷ cùng tới chi phối đại tràng xuống,
trực tràng, bàng quang và phần thấp của
niệu quản. Các sợi phó giao cảm của tuỷ cùng cũng cho các nhánh tới chi phối
(kích thích) cơ quan sinh dục ngoài.
Hệ phó giao cảm cũng có nơron
trước hạch và nơron sau hạch. Tuy nhiên trừ một vài dây phó giao cảm ở dây thần
kinh sọ, sợi tiền hạch phó giao cảm đi thẳng tới cơ quan mà nó chi phối. Nơron
hậu hạch phó giao cảm nằm ở trong thành của tạng hay ngay sát tạng; các sợi
tiền hạch tạo synap ở đây, các sợi hậu hạch chỉ dài từ một mm đến vài cm đi
ngay trọng tạng và chi phối tạng đó.
2. DẪN TRUYỀN
QUA SYNAP Ở HỆ THẦN KINH TỰ CHỦ
2.1. Sợi cholinergic và sợi adrenergic. Sợi bài tiết acetylcholin được gọi là sợi
cholinergic; sợi bài tiết noradrenalin được gọi là sợi adrenergic. Các chất này
là chất truyền đạt thần kinh phó giao cảm hay chất truyền đạt thần kinh giao
cảm.
Các sợi tiền hạch của cả hệ giao cảm và hệ phó giao
cảm đều là sợi cholinergic; do đó acetylcholin hoặc các chất giống acetylcholin
khi được tiêm vào hạch sẽ kích thích nơron hậu hạch của cả hệ giao cảm lẫn hệ
phó giao cảm.
Các sợi hậu hạch của hệ phó giao cảm đều là sợi
cholinergic giải phóng acetylcholin (Ach). Ngược lại phần lớn các sợi hậu hạch
của hệ giao cảm là adrenergic giải phóng noradrenalin, trừ các sợi hậu hạch
giao cảm tới tuyến mồ hôi, tới cơ dựng lông và tới một số mạch máu là
cholinergic.
2.2. Các receptor ở các cơ quan đáp ứng.
Để gây tác dụng lên cơ quan đáp ứng, chất truyền đạt
thần kinh trước hết phải gắn với các receptor đặc hiệu nằm ở mặt ngoài của màng
tế bào đáp ứng. Khi chất truyền đạt thần kinh gắn vào receptor thì cấu trúc của
phân tử receptor bị biến đổi và dẫn đến kích thích hoặc ức chế tế bào bằng
cách:
- Thay đổi tính thấm của màng.
- Tác động lên các enzym bên trong tế bào thông qua
AMP vòng.
Tác dụng phụ thuộc vào bản chất của protein receptor
trên màng và vào hiệu quả của sự thay đổi cấu trúc không gian của receptor khi
gắn với chất truyền đạt thần kinh. Chính vì vậy mà tác dụng trên các cơ quan
khác nhau thì khác nhau.
2.2.1. Các receptor cholinergic: Là các receptor tiếp nhận Ach. Có hai loại
receptor khác nhau là các receptor muscarinic và các receptor nicotinic. Chất
muscarin chỉ kích thích các receptor muscarinic, chất nicotin thì chỉ kích
thích các receptor nicotinic; còn acetylcholin thì kích thích cả hai.
- Các receptor muscarinic có ở tất cả các tế
bào chịu kích thích bởi các nơron hậu hạch phó giao cảm và bởi các sợi hậu hạch
giao cảm bài tiết acetylcholin. Atropin
ức chế các receptor muscarinic ở cơ tim, cơ vân, hệ thần kinh trung ương …
- Các receptor nicotinic có ở các hạch giao cảm
và phó giao cảm, tấm vận động của cơ vân, tủy thượng thận và ở một số nơi trong
hệ thần kinh trung ương. Các receptor này bị kích thích bởi ACh và nicotin, tuy
nhiên liều cao nicotin lại có tác dụng ức chế receptor này.
Do có hai
loại receptor khác nhau nên trên lâm sàng khi dùng thuốc cần lưu ý vì có nhiều
thuốc đặc hiệu được dùng để kích thích hay ức chế lên mỗi loại receptor nhất
định.
2.2.2. Các receptor adrenergic:
Có hai loại receptor adrenergic chính là receptor alpha (a) và
receptor beta (b).
Các receptor lại được phân ra làm receptor b1 và receptor b2,
receptor a1
và receptor a2.
Các receptor a
được hoạt hóa bởi adrenalin và bị ức chế bởi phenoxybenzamin. Các receptor b được
hoạt hóa bởi isoproterenol và bị ức chế bởi propanolol.
- Receptor a1 có nhiều trong tuyến nước bọt (làm tăng bài
tiết kali và nước), trong cơ trơn (làm co cơ trơn). Chất truyền tin thứ hai là
IP3, ion calci và có thể cả GMPv.
- Receptor a2
có trong hệ thần kinh trung ương, thận, tử cung, tuyến mang tai, tụy, dưỡng bào
(giải phóng hạt bên trong), tiểu cầu (gây kết tụ), một số màng trước synap sợi
phó giao cảm trong ống tiêu hóa. Các catecholamin tác động lên các receptor này
bằng cách ức chế adenylat cyclase qua trung gian là protein G.
Noradrenalin chủ yếu kích thích các receptor a nhưng cũng có kích thích yếu lên các receptor
b. Adrenalin kích thích cả hai loại receptor
mạnh như nhau. Do đó, tác dụng của noradrenalin và adrenalin lên các cơ quan
khác nhau phụ thuộc vào loại receptor có ở các cơ quan đó. Nếu ở một cơ quan
chỉ có toàn là receptor beta thì adrenalin sẽ có tác dụng kích thích mạnh hơn
(xem bài 13, mục 5.3.2).
Cần chú ý là receptor alpha có một số là kích thích,
một số lại là ức chế; với receptor beta cũng vậy. Do đó, receptor a và b không nhất thiết chỉ có tác dụng ức chế hoặc
là kích thích mà tác dụng của nó phụ thuộc vào ái lực của receptor ở cơ quan mà
nó chi phối với chất truyền đạt thần kinh. Hormon tổng hợp tương tự như noradrenalin
và adrenalin là chất isopropyl, norepinephrin có tác dụng rất mạnh lên receptor
b nhưng không có
tác dụng lên receptor a.
3. TÁC DỤNG
KÍCH THÍCH VÀ ỨC CHẾ CỦA HỆ GIAO CẢM VÀ CỦA HỆ PHÓ GIAO CẢM LÊN CÁC CƠ QUAN.
Tác dụng của hệ giao cảm và của
hệ phó giao cảm lên các tạng khác nhau được trình bày tóm tắt trong bảng
18.1. Qua bảng này, chúng ta có thể thấy kích thích giao cảm hoặc phó giao
cảm gây kích thích lên một số cơ quan này nhưng lại gây ức chế lên một số khác.
Hơn nữa, trong khi giao cảm kích thích thì phó giao cảm đôi khi lại ức chế cơ
quan ấy. Điều này chứng tỏ có lúc hai hệ này tác động đối nghịch nhau. Tuy vậy,
phần lớn các cơ quan thường do một hệ chi phối mạnh hơn là do hệ kia.
Bảng 18.1. Tác dụng của hệ
thần kinh tự chủ lên các cơ quan.
Cơ quan
|
Tác dụng của giao cảm
|
Tác dụng của phó giao cảm
|
Mắt
-
Đồng tử
-
Cơ thể mi
|
Giãn
Giãn nhẹ (nhìn xa)
|
Co
Co rút (nhìn gần)
|
Tuyến mũi, nước
mắt, mang tai, dưới hàm, dạ dày, tụy
|
Co mạch tuyến và
bài tiết nhẹ
|
Kích thích bài tiết
tăng thể tích và tăng nồng độ enzym
|
Tuyến mồ hôi
|
Bài tiết nhiều
(cholinergic)
|
Tiết mồ hôi lòng
bàn tay
|
Tim
-
Mạch vành
-
Cơ tim
|
Giãn (b2), co (a)
Tăng nhịp, tăng lực co
|
Giãn
Giảm nhịp, giảm lực
co
|
Phổi
- Tiểu phế quản
- Mạch máu phổi
|
Giãn
Co vừa
|
Co
Giãn ?
|
Ruột
-
Cơ thắt
-
Nhung mao
|
Tăng trương lực
Giảm nhu động và
trương lực
|
Giãn
Tăng nhu động và
trương lực
|
Gan
Túi mật, đường
mật
|
Giải phóng glucose
Giãn
|
Tăng nhẹ tổng hợp glycogen
Co
|
Thận
|
Giảm lọc, giảm tiết
renin
|
Không có tác dụng
|
Bàng quang
-
Cơ detrusor
-
Cơ tam giác
|
Giãn nhẹ
Co
|
Co
Giãn
|
Dương vật
|
Xuất tinh
|
Cương
|
Tiểu động mạch
-
Da
-
Tạng ổ bong
-
Cơ vân
|
Co
Co
Co (a)
Giãn (b2)
Giãn (cholinergic)
|
Không có tác dụng
-
-
-
-
|
Máu
-
Đông máu
-
Glucose, lipid
|
Tăng
Tăng
|
-
-
|
Chuyển hóa cơ sở
|
Tăng tới 100%
|
-
|
Bài tiết của tủy
thượng thận
|
Tăng
|
-
|
Hoạt động tâm thần
|
Tăng
|
-
|
Cơ dựng lông
|
Co
|
-
|
Cơ vân
|
Tăng phân giải
glycogen
|
-
|
Tế bào mỡ
|
Phân giải mỡ
|
-
|
4. ĐẶC ĐIỂM
HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THẦN KINH TỰ CHỦ
4.1. Gây ra đáp ứng với tần số kích thích rất thấp.
Điều khác biệt điển hình
giữa hệ thần kinh tự chủ với hệ thần kinh thân (Somatic Nervous System) là chỉ
cần một tần số kích thích rất thấp lên hệ thần kinh tự chủ cũng gây ra được
hoạt động tối đa của các cơ quan đáp ứng. Nói chung, để duy trì hoạt động bình
thường của giao cảm và phó giao cảm thì chỉ cần tần số khoảng 1 xung/giây. Đáp
ứng tối đa xuất hiện khi sợi thần kinh tự chủ phát xung với tần số từ 10 đến 20
xung/giây, trong khi muốn cơ vân đáp ứng tối đa thì cần một tần số kích thích
là từ 50 đến 500 xung/giây.
4.2. “Trương lực” giao cảm và phó giao cảm
Hệ giao cảm và hệ phó giao cảm hoạt động liên tục và
mức hoạt động cơ sở của chúng được gọi là trương lực giao cảm và trương lực
phó giao cảm. Ý nghĩa của tính trương lực là nó cho phép một hệ làm tăng
hay làm giảm hoạt động của một cơ quan nhất định nào đó. Ví dụ, trương lực giao
cảm bình thường giữ cho hầu hết các tiểu động mạch vòng đại tuần hoàn co lại
làm cho đường kính của chúng bằng một nửa của đường kính tối đa. Nếu kích thích
giao cảm thì các mạch này có thể co thêm nữa. Hệ giao cảm hoạt động có xu hướng
liên tục và chỉ gây ra co mạch, không bao giờ gây giãn. Một ví dụ khác là
trương lực của hệ phó giao cảm lên cơ trơn ống tiêu hóa. Nếu cắt dây X chi phối
ruột thì dạ dày và ruột bị mất trương lực kéo dài, thức ăn di chuyển chậm và
táo bón nặng, kéo dài. Điều này chứng tỏ bình thường trương lực của phó giao
cảm lên ống tiêu hóa là rất mạnh. Tuy nhiên, não có thể làm giảm hoặc làm tăng
trương lực này.
Chính vì hệ thần kinh tự chủ có một trương lực hoạt
động nhất định nên ngay sau khi cắt dây giao cảm hoặc phó giao cảm chi phối một
cơ quan nào đó thì cơ quan đó mất trương lực của giao cảm hoặc phó giao cảm
nhưng sau một thời gian thì trương lực nội tại sẽ tăng lên để đưa cơ quan đó
trở về gần mức cơ sở bình thường. Mặt khác sau nhiều tuần thì cơ quan đó cũng
trở nên nhạy cảm hơn với noradrenalin hoặc acetylcholin được đưa vào cơ thể. Cơ
chế của hiện tượng này còn chưa rõ.
5. ĐIỀU HÒA
HOẠT ĐỘNG HỆ THẦN KINH TỰ CHỦ.
5.1. Ảnh hưởng của vỏ não. Ảnh hưởng của vỏ não lên hoạt động của hệ thần
kinh tự chủ rõ khi có cảm xúc, thể hiện bằng thay đổi nhịp tim, nhịp thở, co
giãn mạch nông, thay đổi hoạt động ở tạng. Phần lớn các phản xạ có sự tham gia
của hệ thần kinh tự chủ do các kích thích bên ngoài và từ bên trong cơ thể là
không có ý thức nhưng cũng có một số phản xạ do kích thích từ vỏ não (phản xạ
thích nghi của mắt với ánh sáng, các phản xạ được điều kiện hóa bài tiết dịch
tiêu hóa, phản xạ bài xuất phân và nước
tiểu).
5.2. Vai trò của hành não, cầu não và não
giữa. Nhiều vùng của cấu tạo
lưới thuộc hành não, cầu não, não giữa và nhiều nhân của não có tác dụng điều
hòa các chức năng tự động (ví dụ huyết áp, nhịp tim, bài tiết của các tuyến
tiêu hóa, nhu động ống tiêu hóa, co cơ bàng quang). Các hoạt động chức năng có
tính sinh mệnh như nhịp tim, huyết áp, hô hấp được điều hòa bởi các trung tâm
nằm ở phần thấp của thân não. Cần chú ý là các trung tâm điều hòa tim mạch liên
quan đến các trung tâm điều hòa hô hấp ở hành não và cầu não nhưng điều hòa hô
hấp không phải là chức năng của hệ thần kinh tự chủ mà là một trong các chức
năng không tùy ý của cơ thể.
5.3. Vai trò của vùng dưới đồi. Vùng dưới đồi được coi là trung tâm cao nhất
của hệ thần kinh tự chủ. Kích thích phần trước của vùng dưới đồi gây ra các đáp
ứng giống như kích thích phó giao cảm; kích thích phần sau vùng dưới đồi gây ra
các đáp ứng giống như kích thích giao cảm.
5.4. Hormon
- Hormon của tuyến giáp làm tăng tác dụng của giao
cảm.
- Tuyến tủy thượng thận sản xuất và giải phóng
noradrenalin và adrenalin nên có thể được coi như một nơron hậu hạch giao cảm
lớn. Kích thích dây giao cảm tới thượng thận làm thượng thận tăng bài tiết
catecholamin. Như vậy, các cơ quan chịu ảnh hưởng đồng thời bởi hai cách: Trực
tiếp của hệ giao cảm và gián tiếp của
tủy thượng thận qua các hormon. Hai cách này bổ sung cho nhau và có thể thay
thế nhau. Các cấu trúc của cơ thể không nhận sợi giao cảm vẫn nhận được kích
thích có tác dụng như kích thích giao cảm thông qua các catecholamin được tuyến
thượng thận giải phóng vào máu.
5.5. Stress. Khi phần lớn hệ giao cảm cùng hưng phấn mạnh thì gây
ra huyết áp tăng, lượng máu đến các cơ tăng trong khi lượng máu đến ống tiêu
hóa, thận và một số cơ quan không cần thiết giảm; chuyển hóa tế bào toàn thân,
glucose huyết, phân giải glycogen ở gan, lực co cơ , hoạt động tâm thần ... đều
tăng. Tất cả những tác dụng trên cộng lại làm cho cơ thể có khả năng hoạt động
mạnh hơn rất nhiều so với bình thường. Các stress tâm lý và thể xác thường kích
thích hệ giao cảm nên người ta cho rằng mục đích của hệ giao cảm là làm tăng hoạt
động của cơ thể trong trạng thái stress và đấy là đáp ứng với stress của
hệ giao cảm. Hiện tượng này được gọi là phản ứng báo động, là
phản ứng chiến đấu hay phản ứng rút lui (tùy biểu hiện trụ lại để
chiến đấu hoặc bỏ chạy).
6. THUỐC ẢNH
HƯỞNG LÊN HỆ THẦN KINH TỰ CHỦ.
Hiện nay, với việc phát hiện các receptor và tìm ra
những chất có tác dụng chọn lọc lên từng receptor, các chất có tác dụng lên hệ
thần kinh tự chủ được dùng nhiều trong điều trị tùy theo từng trường hợp rối
loạn cụ thể nhất là trong các bệnh tim mạch. Điều cần chú ý là một loại
receptor có thể có mặt ở nhiều nơi khác nhau và có tác dụng khác nhau ở mỗi nơi
nên gây tác dụng mong muốn ở nơi này thì lại gây tác dụng không mong muốn ở nơi
khác. Các thuốc ảnh hưởng lên hệ thần kinh tự chủ có thể có tác dụng tại trung
tâm hay tại ngoại vi bằng nhiều cơ chế khác nhau.
6.1. Thuốc ảnh hưởng lên các cơ quan đáp ứng
adrenergic.
6.1.1. Thuốc giống giao cảm. Adrenalin, methoxamin và một số thuốc khác có
tác dụng giống giao cảm. Các thuốc giống giao cảm thường có tác dụng dài hơn
noradrenalin và adrenalin (từ 30 phút đến 2 giờ so với 1 - 2 phút). Một số
thuốc có tác dụng đặc hiệu lên một loại receptor adrenergic nhất định. Ví dụ,
phenylephrin chỉ tác động lên receptor a; isoproterenol, albuterol chỉ tác động lên
receptor b.
6.1.2. Thuốc làm giải phóng noradrenalin ở cúc
tận cùng. Thuốc có tác
dụng gián tiếp qua hệ giao cảm chứ không tác dụng trực tiếp lên cơ quan đáp
ứng. Ví dụ, ephedrin, tyramin, amphetamin. Các thuốc này làm các bọc nhỏ giải
phóng noradrenalin.
6.1.3. Thuốc kìm hãm hoạt
tính adrenergic. Thuốc có
tác dụng kìm hãm hoạt tính này ở nhiều khâu: (1) Ngăn chặn sự tổng hợp và tích
trữ noradrenalin ở các cúc tận cùng. Thuốc điển hình được biết đến là reserpin;
(2) ức chế giải phóng noradrenalin từ cúc tận cùng, chất điển hình là
guanethidin; (3) ức chế receptor b. Propanolol ức chế tất cả các receptor b, metoprolol chỉ ức chế receptor b1; (4) ức chế dẫn truyền tại hạch. Hexamethionum ức chế cả hạch giao cảm
và hạch phó giao cảm.
6.2. Thuốc ảnh hưởng lên cơ quan đáp ứng
cholinergic.
6.2.1. Thuốc có tác dụng phó giao cảm
(muscarinic). Các thuốc này có tác dụng trực tiếp lên các
receptor muscarinic và lên các cơ quan đáp ứng với sợi cholinergic của phó giao
cảm; ví dụ, gây bài tiết mồ hôi, gây giãn mạch ở một số cơ quan và ngay cả ở
các mạch không nhận sợi cholinergic. Thuốc thường được dùng là pilocarpin và
metacholin.
6.2.2. Thuốc làm tăng tác dụng của phó giao
cảm (thuốc kháng cholinesterase). Các thuốc này ức chế cholinesterase nên làm cho ACh tồn tại lâu trong
khe synap, kết quả là lượng ACh tăng dần khi có kích thích liên tiếp và gây ra
mức độ đáp ứng tăng theo. Thuốc loại này có neostigmin, pyridostigmin,
ambenonium.
6.2.3. Thuốc ức chế hoạt tính cholinergic ở cơ
quan đáp ứng (thuốc kháng muscarin). Atropin và các thuốc tương tự như homatropin,
scopolamin ức chế tác dụng của Ach lên các receptor muscarinic nhưng không ảnh
hưởng lên tác dụng của ACh đối với receptor nicotinic ở nơron hậu hạch hay ở cơ
vân.
6.3. Thuốc có tác dụng lên hạch
6.3.1. Thuốc kích thích hạch. Nicotin kích thích receptor nicotinic tại
hạch giao cảm và hạch phó giao cảm. Metacholin có tác dụng kích thích receptor
nicotinic và muscarinic. Pilocarpin chỉ kích thích receptor muscarinic.
6.3.2. Thuốc ức chế hạch. Các chất tetraethyl ammonium, hexamethionum,
pentholium ức chế dẫn truyền trong hạch giao cảm và hạch phó giao cảm. Các
thuốc này được dùng chủ yếu để ức chế ...Link dự phòng: http://adf.ly/1ff6ak http://ouo.io/XtAkrA
0 nhận xét:
Post a Comment