LINK TẢI BẢN ĐỌC ĐẦY ĐỦ: http://shink.in/PhFEw
CÁCH DOWNLOAD: CLICK VÀO LINK Ở TRÊN SAU ĐÓ CLICK VÀO Ô "TÔI KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI MÁY" VÀ TRẢ LỜI 1 CÂU HỎI RỒI CHỜ 3s VÀ BẤM VÀO Ô "GET LINK" VÀI LẦN ĐỂ TẢI VỀ
Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng:
1. Trình bày được chất tiếp nhận hormon, cơ
chế tác dụng và cơ chế điều hoà bài tiết của hormon.
2. Trình bày được bản chất hoá học, tác dụng
và điều hoà bài tiết từng hormon của vùng dưới đồi, tuyến yên, tuyến giáp,
tuyến cận giáp, tuyến tụy, tuyến thượng thận.
3. Trình bày được bản chất hoá học, tác dụng
của các hormon tại chỗ.
4. Giải thích được các triệu chứng của các
bệnh nội tiết thường gặp dựa trên các tác dụng của các hormon.
Chức
năng của cơ thể được điều hoà bằng hai hệ thống chủ yếu đó là hệ thống thần
kinh và hệ thống thể dịch. Vai trò điều hoà của hệ thống thần kinh sẽ được đề
cập đến trong các bài 15,16,17,18.
Hệ
thống thể dịch điều hoà chức năng của cơ thể bao gồm nhiều yếu tố như thể tích
máu, các thành phần của máu và thể dịch như nồng độ các loại khí, nồng độ các
ion và đặc biệt là nồng độ các hormon nội tiết. Chính vì vậy hệ thống thể dịch
còn được gọi là hệ thống nội tiết.
Nhìn
chung hệ thống nội tiết chủ yếu điều hoà các chức năng chuyển hoá của cơ thể
như điều hoà tốc độ các phản ứng hoá học ở tế bào, điều hoà sự vận chuyển vật
chất qua màng tế bào hoặc các quá trình chuyển hoá khác của tế bào như sự phát
triển, sự bài tiết. Tuy nhiên tác dụng điều hoà của các hormon thì không giống
nhau. Một số hormon, tác dụng xuất hiện sau vài giây trong khi một số hormon
khác lại cần vài ngày nhưng sau đó tác dụng có thể kéo dài vài ngày, vài tuần
thậm chí vài tháng.
Giữa
hệ thống nội tiết và hệ thống thần kinh có mối liên quan tương hỗ. Ít nhất có
hai tuyến bài tiết hormon dưới tác dụng của kích thích thần kinh như tuyến
thượng thận và tuyến yên. Đồng thời các hormon vùng dưới đồi lại được điều hoà
bài tiết bởi các tuyến nội tiết khác.
1. ĐẠI CƯƠNG VỀ HỆ NỘI TIẾT VÀ HORMON
1.1
Định nghĩa
1.1.1
Định nghĩa tuyến nội tiết
Khác
với tuyến ngoại tiết như tuyến nước bọt, tuyến tụy ngoại tiết, tuyến dạ dày… là
những tuyến có ống dẫn, chất bài tiết được đổ vào một cơ quan nào đó qua ống
tuyến, tuyến nội tiết lại là những tuyến không có ống dẫn, chất bài tiết được
đưa vào máu rồi được máu đưa đến các cơ quan, các mô trong cơ thể và gây ra các
tác dụng ở đó.
Các
tuyến nội tiết chính của cơ thể gồm vùng dưới đồi, tuyến yên, tuyến giáp, tuyến
cận giáp, tuyến tụy nội tiết, tuyến thượng thận, tuyến sinh dục nam và nữ, rau
thai (hình 13.1).
Hình
13.1. Các tuyến nội tiết
1.1.2.
Định nghĩa hormon
Hormon
là những chất hoá học do một nhóm tế bào hoặc một tuyến nội tiết bài tiết vào
máu rồi được máu đưa đến các tế bào hoặc mô khác trong cơ thể và gây ra các tác
dụng sinh lý ở đó.
1.2.
Phân loại hormon
Dựa
vào nơi bài tiết và nơi tác dụng người ta phân các hormon thành hai loại đó là
hormon tại chỗ (hormon địa phương) và hormon của các tuyến nội tiết.
1.2.1.
Hormon tại chỗ
Hormon
tại chỗ là những hormon do một nhóm tế bào bài tiết vào máu rồi được máu đưa
đến các tế bào khác ở gần nơi bài tiết để gây ra các tác dụng sinh lý.
Ví
dụ: Secretin, cholecystokinin, histamin, prostaglandin …
1.2.2.
Hormon của các tuyến nội tiết
Khác
với các hormon tại chỗ, các hormon của các tuyến nội tiết thường được máu đưa
đến các mô, các cơ quan ở xa nơi bài tiết và gây ra các tác dụng sinh lý ở đó.
Các
hormon do các tuyến nội tiết bài tiết lại được phân thành hai loại khác nhau:
- Một số
hormon có tác dụng lên hầu hết các mô ở trong cơ thể như hormon GH của tuyến
yên, T3, T4 của tuyến giáp, cortisol của tuyến vỏ thượng thận, insulin của
tuyến tụy nội tiết …
- Một số hormon chỉ có tác dụng đặc hiệu lên một mô hoặc
một cơ quan nào đó như hormon ACTH, TSH, FSH, LH … của tuyến yên. Các mô hoặc
cơ quan chịu tác dụng đặc hiệu của những hormon này được gọi là mô hoặc cơ quan
đích.
Các
hormon của tuyến nội tiết chính của cơ thể là:
- Vùng dưới đồi: Bài tiết các hormon giải phóng và ức
chế, hai hormon khác được chứa ở thuỳ sau tuyến yên là ADH (vasopressin) và
oxytocin.
-
Tuyến yên: Bài tiết GH, ACTH, TSH, FSH, LH, prolactin.
-
Tuyến giáp: Bài tiết T3, T4, Calcitonin.
-
Tuyến cận giáp: Bài tiết parathormon (PTH).
- Tuyến tuỵ nội tiết: Bài tiết insulin, glucagon.
-
Tuyến vỏ thượng thận: Bài tiết cortisol, aldosteron.
-
Tuyến tuỷ thượng thận: Bài tiết adrenalin, noradrenalin.
-
Tuyến buồng trứng: Bài tiết estrogen, progesteron.
-
Tuyến tinh hoàn: Bài tiết testosteron, inhibin.
-
Rau thai: Bài tiết hCG, estrogen, progesteron, HCS, relaxin.
1.3.
Bản chất hoá học của hormon
Các
hormon thường có bản chất hoá học thuộc một trong ba loại sau đây:
- Steroid: Đây là những hormon có cấu trúc hoá học
giống cholesterol và hầu hết được tổng hợp từ cholesterol như hormon của tuyến
vỏ thượng thận (cortisol, aldosteron), từ tuyến sinh dục (estrogen,
progesteron, testosteron).
- Dẫn xuất của acid amin là tyrosin: Hai nhóm hormon
được tổng hợp từ tyrosin đó là hormon của tuyến tuỷ thượng thận (adrenalin,
noradrenalin) và hormon của tuyến giáp (T3, T4).
- Protein
và peptid: Hầu như tất cả các hormon còn lại của cơ thể là protein, peptid,
hoặc dẫn xuất của hai loại này như các hormon vùng dưới đồi, hormon tuyến yên,
hormon tuyến cận giáp, hormon tuyến tụy nội tiết và hầu hết các hormon tại chỗ.
1.4.
Chất tiếp nhận hormon tại tế bào đích (receptor)
Khi
đến tế bào đích, các hormon thường không tác dụng trực tiếp vào các cấu trúc
trong tế bào để điều hoà các phản ứng hoá học ở bên trong tế bào mà chúng
thường gắn với các chất tiếp nhận – các receptor ở trên bề mặt hoặc ở trong tế
bào đích. Phức hợp hormon – receptor sau đó sẽ phát động một chuỗi các phản ứng
hoá học ở trong tế bào. Tất cả hoặc hầu như tất cả receptor đều là những phân
tử protein có trọng lượng phân tử lớn. Mỗi tế bào đích thường có khoảng 2.000 –
100.000 receptor.
Mỗi
receptor thường đặc hiệu với một hormon, chính điều này quyết định tác dụng đặc
hiệu của hormon lên mô đích. Mô đích chịu tác dụng của hormon chính là mô có
chứa các receptor đặc hiệu tiếp nhận hormon đó. Các receptor tiếp nhận các loại
hormon khác nhau có thể nằm ở các vị trí sau.
- Ở trên bề mặt hoặc ở trong màng tế bào: Đây là các
receptor tiếp nhận hầu hết các hormon protein, peptid và catecholamin.
- Ở trong bào tương: Các receptor nằm trong bào tương
là những receptor tiếp nhận các hormon steroid.
- Ở trong nhân tế bào: Đây là những receptor tiếp nhận
hormon T3 – T4 của tuyến giáp. Người ta cho rằng các receptor này có thể nằm
trên một hoặc nhiều chromosom trong nhân tế bào đích.
Số
lượng các receptor ở tế bào đích có thể thay đổi từng ngày thậm chí từng phút
bởi vì các phân tử protein receptor tự nó có thể bị bất hoạt hoặc bị phá huỷ
trong quá trình hoạt động nhưng rồi chúng lại có thể được hoạt hoá trở lại hoặc
hình thành các phân tử mới nhờ cơ chế tổng hợp protein trong tế bào.
1.5.
Cơ chế tác dụng của hormon
Sau
khi hormon gắn với receptor tại tế bào đích, hormon sẽ hoạt hoá receptor, nói
cách khác là làm cho receptor tự nó thay đổi cấu trúc và chức năng. Chính những
receptor này sẽ gây ra các tác dụng tiếp theo như làm thay đổi tính thấm màng
tế bào (mở kênh hoặc đóng các kênh ion), hoạt hoá hệ thống enzym ở trong tế bào
do hormon gắn với receptor trên màng tế bào, hoạt hoá hệ gen do hormon gắn với
receptor ở nhân tế bào.
Tuỳ
thuộc vào bản chất hoá học của hormon mà vị trí gắn của hormon với receptor sẽ
xảy ra trên màng, trong bào tương hoặc trong nhân tế bào và do đó chúng cũng có
những con đường tác động khác nhau vào bên trong tế bào hay nói cách khác,
chúng có những cơ chế tác dụng khác nhau tại tế bào đích.
1.5.1.
Cơ chế tác dụng của các hormon gắn với receptor trên màng tế bào
Hầu
hết các hormon có bản chất hoá học là protein, peptid, dẫn xuất của acid amin
khi đến tế bào đích đều gắn với các receptor nằm ngay trên màng tế bào. Phức
hợp hormon - receptor này sẽ tác động vào hoạt động của tế bào đích thông qua
một chất trung gian được gọi là chất truyền tin thứ hai.
1.5.1.1.
Cơ chế tác dụng thông qua chất truyền tin thứ hai là AMP vòng
Sau khi gắn với receptor trên màng tế bào, phức hợp
hormon - receptor sẽ hoạt hoá một enzym nằm trên màng tế bào là adenylcyclase.
Sau khi được hoạt hóa, enzym này lập tức xúc tác phản ứng tạo ra các phân tử
cyclic 3’-5’ adenosin monophosphat (AMP vòng) từ các phân tử ATP. Phản ứng này
xảy ra ở bào tương. Sau khi được tạo thành, ngay lập tức AMP vòng hoạt hoá một
chuỗi các enzym khác theo kiểu dây truyền. Ví dụ enzym thứ nhất sau khi được
hoạt hoá sẽ hoạt hoá tiếp enzym thứ hai, rồi enzym thứ hai lại hoạt hoá tiếp
enzym thứ ba, cứ thế tiếp tục enzym thứ tư, thứ năm … Với kiểu tác dụng như
vậy, chỉ cần một lượng rất nhỏ hormon tác động trên bề mặt tế bào đích cũng đủ
gây ra một động lực hoạt hoá mạnh cho toàn tế bào. Hệ thống enzym đáp với AMP
vòng ở tế bào đích có thể khác nhau giữa tế bào này với tế bào khác nhưng chúng
có cùng một họ chung là proteinkinase. Các tác dụng mà hormon gây ra ở tế bào
đích có thể là tăng tính thấm của màng tế bào, tăng tổng hợp protein, tăng bài
tiết, co hoặc giãn cơ (hình 13.2).
Sau
khi gây ra các tác dụng sinh lý tại tế bào đích, AMP vòng bị bất hoạt để trở
thành 5’AMP dưới tác dụng của enzym phosphodiesterase có trong bào tương tế bào
đích.
Các
hormon tác dụng tại tế bào đích thông qua AMP vòng bao gồm: ACTH, TSH, LH, FSH,
vasopressin, parathormon, glucagon,catecholamin, secretin, hầu hết các hormon
giải phóng của vùng dưới đồi.
1.5.1.2.
Cơ chế tác dụng thông qua chất truyền tin thứ hai là ion calci và calmodulin
Một
số trường hợp khi hormon hoặc chất truyền đạt thần kinh gắn với receptor
(protein kênh) trên màng tế bào đích nó sẽ làm mở kênh ion calci và calci được
vận chuyển vào trong tế bào.
Tại
bào tương, calci gắn với một loại protein là calmodulin. Loại protein này có 4
vị trí để gắn với ion calci. Khi có 3 hoặc 4 vị trí gắn với calci thì phân tử
calmodulin được hoạt hoá và gây ra một loạt tác dụng trong tế bào tương tự như
tác dụng của AMP vòng, đó là một chuỗi phản ứng dây truyền hoạt hoá một loạt
các enzym xảy ra (những enzym này khác với enzym đáp ứng với AMP vòng) trong tế
bào. Một trong những tác dụng đặc hiệu của calmodulin là hoạt hoá enzym
myosinkinase là enzym tác dụng trực tiếp lên sợi myosin của cơ trơn để làm co
cơ trơn.
1.5.1.3.
Cơ chế tác dụng thông qua chất truyền tin thứ hai là các “mảnh” phospholipid.
Một
số hormon khi gắn với receptor trên màng tế bào lại hoạt hoá enzym phospholipase
C trên màng tế bào. Enzym này có tác dụng cắt các phân tử phospholipid thành
các phân tử nhỏ và hoạt động như những chất truyền tin thứ hai để gây ra các
tác dụng tại các tế bào đích như co cơ trơn, thay đổi sự bài tiết, thay đổi
hoạt động của nhung mao, thúc đẩy sự phân chia và tăng sinh tế bào.
Những
hormon tác dụng theo con đường này chủ yếu là các hormon tại chỗ, đặc biệt là
các hormon được giải phóng do các phản ứng miễn dịch và dị ứng.
1.5.2.
Cơ chế tác dụng của các hormon gắn với receptor trong tế bào
Các
hormon vỏ thượng thận và hormon sinh dục sau khi gắn với receptor trong bào
tương để tạo thành phức hợp hormon – receptor, phức hợp này sẽ được vận chuyển
từ bào tương vào nhân tế bào. Tại nhân tế bào, phức hợp hormon – receptor sẽ
gắn vào các vị trí đặc hiệu trên phân tử DNA của nhiễm sắc thể và hoạt hoá sự
sao chép của gen đặc hiệu để tạo thành RNA thông tin. Sau khi được tạo thành,
RNA thông tin sẽ khuếch tán ra bào tương và thúc đẩy quá trình dịch mã tại
ribosom để tổng hợp các phân tử protein mới. Những phân tử protein này có thể
là các phân tử enzym hoặc phân tử protein vận tải hoặc protein cấu trúc (hình
13.3).
Ví
dụ: Aldosteron là hormon của tuyến vỏ thượng thận được máu đưa đến tế bào ống
thận. Tại
đây aldosteron khuếch tán vào bào tương và gắn với receptor. Phức hợp
aldosteron – receptor sẽ thúc đẩy một chuỗi các sự kiện nói trên tại tế bào ống
thận. Sau 45 phút, các protein vận tải bắt đầu xuất hiện ở tế bào ống thận,
nhằm làm tăng tái hấp thu ion natri và tăng bài xuất ion kali.
Chính vì kiểu tác dụng của hormon steroid có đặc điểm như
đã trình bày ở trên nên tác dụng thường xuất hiện chậm sau vài chục phút đến
vài giờ, thậm chí vài ngày nhưng tác dụng kéo dài, điều này thường trái ngược
với tác dụng xảy ra tức khắc của các hormon tác dụng thông qua AMP vòng.
Hormon T3, T4 của tuyến giáp cũng tác động tại tế bào
đích theo cơ chế này chỉ có khác là T3, T4 khuếch tán vào nhân tế bào và gắn
trực tiếp vào receptor nằm trên phân tử DNA chứ không qua bước trung gian là
gắn với receptor của bào tương.
Hình 13.3. Cơ chế tác dụng thông qua hoạt hoá hệ
gen
1.6. Cơ chế điều hoà bài tiết hormon
Các
hormon được bài tiết theo cơ chế điều khiển từ tuyến chỉ huy đến tuyến đích và
theo cơ chế điều hoà ngược (feedback) từ tuyến đích đến tuyến chỉ huy. Ngoài cơ
chế này, sự bài tiết hormon còn được điều hoà theo nhịp sinh học và chịu sự tác
động của một số chất truyền đạt thần kinh (neurotransmitters). Tuy nhiên, cơ
chế điều hoà ngược là cơ chế chủ yếu, nhanh và nhạy để duy trì nồng độ hormon
luôn hằng định và thích ứng được với hoạt động của cơ thể khi sống trong môi
trường luôn thay đổi.
1.6.1.
Điều hoà ngược âm tính
Là
kiểu điều hoà mà khi nồng độ hormon tuyến đích giảm, nó sẽ kích thích tuyến chỉ
huy bài tiết nhiều hormon để rồi hormon tuyến chỉ huy lại kích thích tuyến đích
nhằm đưa nồng độ tuyến đích tăng trở lại mức bình thường. Ngược lại, khi nồng
độ hormon tuyến đích tăng lại có tác dụng ức chế tuyến chỉ huy làm giảm bài
tiết hormon tuyến chỉ huy.
Ví
dụ: Nồng độ hormon T3, T4 giảm thì ngay lập tức nó sẽ kích thích vùng dưới đồi,
tuyến yên tăng bài tiết TRH và TSH. Chính hai hormon này quay trở lại kích
thích tuyến giáp tăng bài tiết để đưa nồng độ T3, T4 trở về mức bình thường (hình
13.4).
Điều
hoà ngược âm tính là kiểu điều hoà thường gặp trong cơ thể nhằm duy trì nồng độ
hormon nằm trong giới hạn bình thường.
Rối
loạn cơ chế điều hoà ngược âm tính sẽ dẫn đến rối loạn hoạt động của hệ thống
nội tiết. Trong thực hành điều trị các bệnh do rối loạn hoạt động của hệ thống
nội tiết nếu không lưu ý đến đặc điểm này thì có thể dẫn từ rối loạn này sang
rối loạn khác. Ví dụ để điều trị bệnh nhược năng tuyến vỏ thượng thận (bệnh
Addison) người ta thường dùng cortisol. Nếu sử dụng cortisol với liều lượng cao
và kéo dài, nó sẽ gây tác dụng điều hoà ngược âm tính lên tuyến yên và làm
tuyến yên giảm bài tiết ACTH, hậu quả là tuyến vỏ thượng thận vốn đã hoạt động
kém nay lại càng nhược năng hơn.
(-)
Hình 13.4. Điều hòa ngược âm tính
1.6.2
Điều hoà ngược dương tính
Khác
với kiểu điều hoà ngược âm tính, trong một số trường hợp người ta thấy nồng độ
hormon tuyến đích tăng lại có tác dụng kích thích tuyến chỉ huy và càng làm
tăng hormon tuyến chỉ huy.
Ví dụ: Khi cơ thể bị stress, định lượng nồng
độ hormon thấy nồng độ cortisol tăng cao đồng thời nồng độ ACTH cũng tăng cao (hình
13.5).
Như vậy kiểu điều hoà ngược dương tính không những không làm ổn định nồng độ hormon mà ngược lại còn làm tăng thêm sự mất ổn định. Tuy nhiên, sự mất ổn định này là cần thiết nhằm bảo vệ cơ thể trong trường hợp này.
Mặc
dù kiểu điều hoà ngược dương tính trong điều hoà hoạt động hệ nội tiết ít gặp
nhưng lại rất cần thiết bởi vì nó thường liên quan đến những hiện tượng mang
tính sống còn của cơ thể như để chống stress, chống lạnh hoặc gây phóng noãn.
Tuy
vậy, kiểu điều hoà này thường chỉ xảy ra trong thời gian ngắn, sau đó lại trở
lại kiểu điều hoà ngược âm tính thông thường. Nếu kéo dài tình trạng này chắc
chắn sẽ dẫn đến tình trạng bệnh lý.
1.7.
Định lượng hormon
Hầu
như tất cả các hormon đều có mặt trong máu với một lượng rất nhỏ được tính bằng
nanogam/ml máu (10-9g) hoặc picogam/ml (10-12g). Bởi vậy,
nhìn chung khó có thể dùng các kỹ thuật định lượng hóa học thông thường để định
lượng nồng độ hormon trong máu.
Từ
30 năm nay, người ta đã sử dụng một kỹ thuật có độ nhạy và độ đặc hiệu cao để
định lượng hormon, tiền hormon hoặc các dẫn xuất của chúng, đó là phương pháp
miễn dịch phóng xạ (Radio Immuno Assay – RIA).
Ngoài
phương pháp miễn dịch phóng xạ (RIA) người ta còn dùng phương pháp miễn dịch
enzym (Enzym Immuno Assay – EIA) để định lượng hormon hoặc dùng các phương pháp
khác như đo độ thanh thải của hormon (Metabolic Clearance Rate), đo mức chế
tiết hormon.
Tuy
nhiên, hai phương pháp hiện nay hay dùng để định lượng hormon là phương pháp
RIA và EIA (ELISA).
1.7.1.
Phương pháp định lượng miễn dịch phóng xạ (RIA)
Nguyên
tắc chung của phương pháp định lượng miễn dịch phóng xạ là dựa trên sự gắn cạnh
tranh giữa hormon tự nhiên (hormon trong máu cần định lượng) và hormon đánh dấu
phóng xạ với kháng thể đặc hiệu. Mức độ gắn của hai loại hormon này với kháng
thể tỷ lệ thuận với nồng độ ban đầu của chúng. Đo phức hợp hormon gắn đồng vị
phóng xạ - kháng thể bằng máy đếm phóng xạ rồi dựa vào đường cong chuẩn ta có
thể tính được lượng hormon có trong dịch cần định lượng (hình 13.6).
1.7.2.
Phương pháp “Bánh kẹp thịt” (“Sandwich”)
Phương
pháp này dựa trên nguyên tắc dùng hai kháng thể đơn dòng “kẹp” vào hai đầu của
chất thử (hormon). Một trong hai kháng thể được đánh dấu hoặc bằng đồng vị
phóng xạ hoặc bằng enzym. Nếu gọi chất cần thử là Ag, kháng thể không đánh dấu
là Ac0, kháng thể đánh dấu là Ac*, ta có:
Ag + Ac0 + Ac* → Ac0
- Ag - Ac*
Nồng độ phức hợp đánh dấu sau phản ứng tỷ lệ với lượng
kháng nguyên có mặt.
Kỹ thuật thông dụng nhất của phương pháp này là “định
lượng hấp thụ miễn dịch gắn enzym” (Enzym Linked Immunosorbent Assay – ELISA).
|
Hình
13.6. Đường cong chuẩn để định lượng aldosteron bằng RIA
2.
VÙNG DƯỚI ĐỒI
2.1.
Đặc điểm cấu tạo
Vùng
dưới đồi (hypothalamus) là một cấu trúc thuộc não trung gian, nằm quanh não
thất ba và nằm chính giữa hệ viền (limbic). Vùng dưới đồi có nhiều nơron tập
trung thành nhiều nhóm nhân và chia thành ba vùng.
- Vùng dưới đồi trước gồm những nhóm nhân như nhóm
nhân trên thị, nhân cạnh não thất, nhân trước thị.
- Vùng dưới đồi giữa có nhóm nhân lồi giữa, bụng giữa,
lưng giữa …
- Vùng dưới đồi sau có nhóm nhân trước vú, trên vú, củ
vú …
Các nơron của vùng dưới đồi ngoài chức năng dẫn truyền
xung động thần kinh như các nơron của các cấu trúc thần kinh khác, còn có chức
năng tổng hợp và bài tiết các hormon.
Vùng
dưới đồi có mối liên hệ mật thiết qua đường mạch máu và đường thần kinh với
tuyến yên (sẽ được trình bày ở phần tuyến yên). Các hormon do vùng dưới đồi bài
tiết sẽ theo những con đường này đến dự trữ hoặc tác động (kích thích hoặc ức
chế) đến chức năng của tuyến yên.
2.2.
Các hormon giải phóng và ức chế của vùng dưới đồi
Các
nơron của vùng dưới đồi mà thân của chúng có thể nằm ở các nhóm nhân khác nhau
của vùng dưới đồi và tận cùng của nơron thì khư trú tại vùng lồi giữa có khả
năng tổng hợp các hormon giải phóng (Releasing Hormone) và các hormon ức chế
(Inhibitory Hormone) để kích thích hoặc ức chế hoạt động của các tế bào thuỳ
trước tuyến yên.
Các
hormon giải phóng và ức chế sau khi được tổng hợp từ thân nơron, chúng được vận
chuyển theo sợi trục xuống tích trữ ở các túi nhỏ trong tận cùng thần kinh nằm
ở vùng lồi giữa. Tại đây hormon khuếch tán vào mạng mao mạch thứ nhất rồi theo
hệ mạch cửa dưới đồi - yên xuống thuỳ trước tuyến yên.
2.2.1
Bản chất hoá học và tác dụng của các hormon giải phóng và ức chế
2.2.1.1.
Hormon giải phóng và ức chế GH: GHRH
và GHIH (Growth Hormone Releasing Hormone và Growth Hormone Inhibitory Hormone)
- Cả hai đều là polypeptid gồm 44 acid amin.
- GHRH có tác dụng kích thích thuỳ trước tuyến yên bài
tiết GH và ngược lại GHIH lại ức chế tế bào thuỳ trước tuyến yên làm giảm bài
tiết hormon GH.
2.2.1.2.
Hormon giải phóng TSH: TRH
(Thyrotropin Releasing Hormone)
- TRH là hormon có cấu trúc rất đơn giản, chỉ gồm 3 acid
amin.
- TRH kích thích tế bào thuỳ trước tuyến yên tổng hợp
và bài tiết TSH. Ngoài ra TRH còn có tác dụng kích thích thuỳ trước tuyến yên
bài tiết prolactin.
2.2.1.3
Hormon giải phóng ACTH: CRH
(Corticotropin Releasing Hormone)
- CRH là một peptid có 41 acid amin
- CRH kích thích tế bào thuỳ trước tuyến yên tổng hợp
và bài tiết ACTH.
2.2.1.4
Hormon giải phóng FSH và LH: GnRH
(Gonadotropin Releasing Hormone)
- GnRH là một peptid có 10 acid amin
- GnRH
kích thích tế bào thuỳ trước tuyến yên tổng hợp và bài tiết cả hai hormon FSH
và LH. GnRH được bài tiết theo nhịp, tuy nhiên nhịp bài tiết GnRH liên quan
chặt chẽ đến sự bài tiết LH hơn là FSH. Vắng mặt GnRH hay đưa GnRH vào dòng máu
đến tuyến yên liên tục thì cả LH và FSH đều không được bài tiết.
2.2.1.5
Hormon ức chế prolactin: PIH
(Prolactin Inhibitory Hormone)
- Cấu trúc của PIH đến nay vẫn chưa rõ.
- Tác dụng của PIH là ức chế bài tiết prolactin từ
thuỳ trước tuyến yên.
2.2.2
Điều hoà bài tiết các hormon giải phóng và ức chế
Cũng
như các hormon khác trong hệ nội tiết, các hormon giải phóng và ức chế được
điều hoà chủ yếu bằng cơ chế điều hoà ngược mà các tín hiệu điều hoà xuất phát
từ tuyến yên hoặc các tuyến ngoại biên khác (hình 13.7).
- Cơ chế điều hoà ngược do các hormon tuyến đích ngoại
biên điều khiển (tuyến giáp, tuyến vỏ thượng thận, tuyến sinh dục) được gọi là
cơ chế điều hoà ngược vòng dài.
- Cơ chế điều hoà ngược do các hormon tuyến yên điều
khiển (GH, TSH, ACTH, FSH, LH, prolactin) được gọi là cơ chế điều hoà ngược
vòng ngắn.
- Cơ chế
điều hoà ngược do chính nồng độ hormon của vùng dưới đồi điều khiển được gọi là
cơ chế điều hoà ngược vòng cực ngắn. Cơ chế này mới chỉ tìm thấy ở hai hormon
GnRH và TRH.
2.3.
Các hormon khác
Ngoài
các hormon giải phóng và ức chế, các nơron thuộc hai nhóm nhân trên thị và cạnh
não thất còn tổng hợp hai hormon khác là ADH (vasopressin) và oxytocin. Hai
nhóm hormon này được tổng hợp ở thân tế bào rồi theo sợi trục đến tích trữ ở
thuỳ sau tuyến yên.
Bản
chất hoá học, tác dụng và điều hoà bài tiết hai hormon này sẽ được trình bày ở
phần các hormon thuỳ sau tuyến yên (xem mục 3.3).
3
2
1
1. Điều hoà ngược vòng dài
2.
Điều hoà ngược vòng ngắn
3. Điều hoà ngược vòng cực ngắn
Hình
13.7. Điều hoà bài tiết hormon vùng dưới đồi
3.1.1.
Vị trí và mối liên hệ với vùng dưới đồi
Tuyến yên là một tuyến nhỏ đường kính khoảng 1 cm, nặng
từ 0,5 - 1 gam. Tuyến yên nằm trong hố yên của xương bướm thuộc nền sọ. Tuyến
yên gồm hai phần có nguồn gốc cấu tạo từ thời kỳ bào thai hoàn toàn khác nhau
đó là thuỳ trước và thuỳ sau (hình 13.8). Tuyến yên liên quan mật
thiết với vùng dưới đồi qua đường mạch máu và đường thần kinh đó là hệ thống
cửa dưới đồi-yên và bó sợi thần kinh dưới đồi -yên.
- Hệ thống cửa dưới đồi-yên (hệ cửa
Popa-Fielding) được cấu tạo bởi mạng mao mạch thứ nhất xuất phát từ động mạch
yên trên. Mao mạch này toả ra vùng lồi giữa (Median Eminance) rồi tập trung
thành những tĩnh mạch cửa dài đi qua cuống tuyến yên rồi xuống thuỳ trước tuyến
yên toả thành mạng mao mạch thứ hai cung cấp 90% lượng máu cho thuỳ trước tuyến
yên. Lượng máu còn lại từ các tĩnh mạch cửa ngắn bắt đầu từ mạng mao mạch của
động mạch yên dưới (hình 13.9).
Các hormon giải phóng và ức chế của
vùng dưới đồi được bài tiết từ các tận cùng của vùng lồi giữa sẽ thấm vào các
mao mạch lồi giữa rồi theo hệ thống cửa dưới đồi-yên xuống điều khiển sự bài
tiết hormon của tuyến yên.
Hình
13.8. Tuyến yên
- Bó sợi thần
kinh dưới đồi-yên là bó thần kinh gồm các sợi trục của các nơron mà thân nằm ở
hai nhóm nhân trên thị và cạnh não thất
còn tận cùng của chúng thì khư trú ở thuỳ sau tuyến yên (hình 13.9).
Hai
hormon do các nơron của nhóm nhân trên thị và cạnh não thất tổng hợp và bài
tiết sẽ theo bó sợi thần kinh này đến dự trữ ở thuỳ sau tuyến yên do vậy các
tín hiệu kích thích vào vùng dưới đồi hoặc thuỳ sau tuyến yên đều gây bài tiết
hai horrmon này.
3.1.2.
Đặc điểm cấu tạo của tuyến yên
3.1.2.1.
Thuỳ trước tuyến yên (thuỳ tuyến)
Thuỳ
trước tuyến yên được cấu tạo bởi những tế bào chế tiết. Những tế bào này có
nhiều loại, mỗi loại tổng hợp và bài tiết một loại hormon. Khoảng 20% tế bào
tuyến yên là những tế bào tổng hợp và bài tiết ACTH. Các tế bào tổng hợp và bài
tiết các hormon khác của thuỳ trước tuyến yên mỗi loại chỉ chiếm từ 3-5% nhưng
chúng có khả năng bài tiết hormon rất mạnh để điều hoà chức năng tuyến giáp,
tuyến sinh dục và tuyến vú.
3.1.2.1.
Thuỳ sau tuyến yên (thuỳ thần kinh)
Thuỳ
sau tuyến yên được cấu tạo chủ yếu bởi các tế bào giống tế bào thần kinh đệm
(glial like cell). Những tế bào này không có khả năng chế tiết hormon mà chỉ có
chức năng như một cấu trúc hỗ trợ cho một lượng lớn các sợi trục và cúc tận
cùng sợi trục khư trú ở thuỳ sau tuyến yên mà thân nằm ở nhân trên thị và nhân
cạnh não thất. Trong cúc tận cùng của những sợi thần kinh này có các túi
chứa hai hormon là ADH và oxytocin.
3.2.
Các hormon thuỳ trước tuyến yên
Thuỳ trước tuyến yên tổng hợp và bài tiết 6 hormon đó là:
- Hormon phát triển cơ thể - GH (Human Growth Hormone
- hGH)
- Hormon kích thích tuyến giáp (Thyroid Stimulating
Hormone)
- Hormon kích thích tuyến vỏ thượng thận - ACTH
(Adreno Corticotropin Hormone)
- Hormon kích thích nang trứng - FSH (Follicle
Stimulating Hormone)
- Hormon kích thích hoàng thể - LH (Luteinizing
Hormone)
- Hormon kích thích bài tiết sữa PRL (Prolactin).
Hình 13.9. Mối liên hệ giữa vùng dưới đồi - tuyến yên
Ngoại trừ GH là hormon có
tác dụng điều hoà trực tiếp chức năng chuyển hoá của toàn bộ cơ thể, các hormon
còn lại chỉ tác dụng đặc hiệu lên một tuyến hoặc mô tế bào nào đó và thông qua
tác dụng lên các tuyến nội tiết này để điều hoà các chức năng chuyển hoá của cơ
thể như hormon TSH, ACTH, FSH, LH, PRL.
3.2.1.
Hormon phát triển cơ thể - GH (hGH)
3.2.1.1.
Bản chất hoá học
GH là một phân tử protein chứa 191 acid amin
trong một chuỗi đơn và có trọng lượng phân tử là 22.005.
3.2.1.2.
Tác dụng
GH
làm phát triển hầu hết các mô có khả năng tăng trưởng trong cơ thể. Nó vừa làm
tăng kích thước tế bào vừa làm tăng quá trình phân chia tế bào do đó làm tăng
trọng lượng cơ thể, làm tăng kích thước các phủ tạng.
- Kích thích
mô sụn và xương phát triển.
+ Tăng lắng đọng protein ở các tế
bào sụn và tế bào tạo xương.
+ Tăng tốc độ sinh sản các tế bào
sụn và tế bào tạo xương.
+ Tăng chuyển các tế bào sụn thành các tế bào tạo
xương.
GH làm
xương phát triển nhờ hai cơ chế chính:
· Cơ chế làm dài xương: GH làm phát triển sụn ở
đầu xương dài, nơi mà đầu xương tách khỏi thân xương. Sự phát triển này bắt đầu
bằng tăng phát triển mô sụn, sau đó mô sụn sẽ được chuyển thành mô xương mới do
đó thân xương dài ra và tự nó cũng dần dần được cốt hoá sao cho đến tuổi vị thành niên thì mô sụn ở đầu xương
không còn nữa, lúc này đầu xương và thân xương sẽ hợp nhất lại với nhau và
xương không dài ra nữa. Như vậy, GH kích thích cả sự phát triển mô sụn đầu
xương và chiều dài xương nhưng khi mà đầu xương hợp nhất với thân xương thì GH
không có khả năng làm dài xương nữa.
· Cơ chế làm dày xương: GH kích thích mạnh tế bào tạo xương là tế bào
thường nằm trên bề mặt xương, do vậy xương tiếp tục dày ra dưới ảnh hưởng của
GH, đặc biệt là màng xương. Tác dụng này được thể hiện ngay cả khi cơ thể đã
trưởng thành đặc biệt đối với các xương dẹt như xương hàm, xương sọ và những
xương nhỏ như xương bàn tay và xương bàn chân. Khi GH được tiết ra quá nhiều ở
những người đã trưởng thành thì xương hàm dày lên làm cho đầu và mặt to ra,
xương bàn chân hay bàn tay cũng dày lên làm bàn chân bàn tay to ra.
-
Kích thích sinh tổng hợp protein
+ Tăng vận chuyển acid amin qua màng tế bào
+ Tăng quá trình sao chép DNA của nhân tế bào để tạo
RNA
+ Tăng quá trình dịch mã RNA để làm tăng tổng hợp
protein từ ribosom
+ Giảm quá trình thoái hoá protein và acid amin
- Tăng tạo năng lượng từ
nguồn lipid
+
Tăng giải phóng acid béo từ các mô mỡ dự trữ, do đó làm tăng nồng độ acid béo
trong máu.
+
Chính vì tác dụng này mà người ta coi tác dụng huy động lipid của GH là một
trong những tác dụng quan trọng nhất nhằm tiết kiệm protein để dùng nó cho sự
phát triển cơ thể.
-
Tác dụng lên chuyển hoá glucid
+
Giảm sử dụng glucose cho mục đích sinh năng lượng
+
Tăng dự trữ glycogen ở tế bào
+
Giảm vận chuyển glucose vào tế bào và tăng nồng độ glucose trong máu
+
Tăng bài tiết insulin: Nồng độ glucose trong máu tăng dưới tác dụng của GH đã
kích thích tuyến tụy nội tiết bài tiết insulin, đồng thời chính GH cũng có tác
dụng kích thích trực tiếp lên tế bào bêta của tuyến tụy.
3.2.1.3. Điều hoà bài
tiết
-
Vùng dưới đồi: GH
được bài tiết dưới sự điều khiển gần như hoàn toàn của hai hormon vùng dưới đồi
là GHRH và GHIH (xem mục 2. Vùng dưới
đồi).
-
Somatostatin là
một hormon tại chỗ do nhiều vùng não và đường tiêu hoá bài tiết (xem mục 8. Hormon tại chỗ) cũng có tác dụng ức
chế bài tiết GH.
-
Nồng độ glucose
trong máu giảm, nồng độ acid béo trong máu giảm, thiếu protein nặng và kéo dài
sẽ làm tăng bài tiết GH.
-
Tình trạng
stress, chấn thương, luyện tập gắng sức sẽ làm tăng bài tiết GH.
Ở người Việt Nam, nồng độ
GH trong máu cuống rốn trẻ sơ sinh là 28,38 ± 10,03 ng/ml, người trưởng thành là 3,94 ± 2,09 ng/ml.
3.2.2. Hormon kích
thích tuyến giáp - TSH
3.2.2.1. Bản chất hoá
học: TSH là một glycoprotein, có
trọng lượng phân tử 28.000.
3.2.2.2. Tác dụng
- Tác dụng lên cấu trúc
tuyến giáp.
+
Tăng số lượng và kích thước tế bào tuyến giáp trong mỗi nang giáp.
+
Tăng biến đổi các tế bào nang giáp từ dạng khối sang dạng trụ (dạng bài tiết).
+
Tăng phát triển hệ thống mao mạch của tuyến giáp.
- Tác dụng lên chức năng
tuyến giáp.
+ Tăng hoạt động bơm iod do đó làm tăng khả năng bắt iod của tế bào tuyến giáp.
+ Tăng gắn iod vào tyrosin để tạo hormon tuyến giáp.
+ Tăng phân giải thyroglobulin được dự trữ trong lòng
nang để giải phóng hormon tuyến giáp vào máu và do đó làm giảm chất keo trong
lòng nang giáp.
3.2.2.3.
Điều hoà bài tiết
Ở người
Việt Nam bình thường nồng độ TSH ở trẻ sơ sinh (máu cuống rốn) là 6,24± 2,69 và người trưởng thành (16-60 tuổi) là 2,12± 0,91 mU/l.
Mức bài
tiết TSH của tuyến yên chịu sự điều khiển từ trên xuống của TRH vùng dưới đồi
và chịu sự điều hoà ngược của tuyến đích là tuyến giáp.
- Nếu
nồng độ TRH vùng dưới đồi tăng thì tuyến yên sẽ bài tiết nhiều TSH và ngược lại
nếu TRH giảm thì nồng độ TSH giảm. Khi
hệ thống cửa dưới đồi- yên bị tổn thương, mức bài tiết TSH của tuyến yên
có thể giảm tới mức bằng không.
- Nồng
độ hormon tuyến giáp ảnh hưởng đến sự bài tiết TSH của tuyến yên theo cơ chế
điều hoà ngược âm tính và dương tính (xem mục 1. Đại cương về hệ nội tiết và
hormon).
3.2.3.
Hormon kích thích tuyến vỏ thượng thận -ACTH
3.2.3.1.
Bản chất hoá học: ACTH là một phân tử
polypeptid lớn gồm 39 acid amin.
3.2.3.2.
Tác dụng
- Tác
dụng lên cấu trúc tuyến vỏ thượng thận: ACTH làm tăng sinh tế bào tuyến vỏ
thượng thận đặc biệt là tế bào của lớp bó và lưới, là những tế bào bài tiết
cortisol và androgen do đó làm tuyến nở to. Thiếu ACTH tuyến vỏ thượng thận sẽ
bị teo lại.
- Tác
dụng lên chức năng vỏ thượng thận: ACTH có tác dụng kích thích vỏ thượng thận
tổng hợp và bài tiết hormon do hoạt hoá các enzym proteinkinase A là enzym thúc
đẩy chặng đầu tiên của quá trình sinh tổng hợp hormon vỏ thượng thận.
- Tác
dụng lên não: ACTH có vai trò làm tăng quá trình học tập và trí nhớ, tăng cảm
xúc sợ hãi.
- Tác
dụng lên tế bào sắc tố: ACTH kích thích tế bào sắc tố sản xuất sắc tố melanin
rồi phân tán sắc tố này trên bề mặt biểu bì da. Thiếu ACTH sẽ làm cho da không
có sắc tố (người bạch tạng). Ngược lại thừa ACTH làm cho da có những mảng sắc
tố.
3.2.3.3.
Điều hoà bài tiết
- Do
nồng độ CRH của vùng dưới đồi quyết định, khi nồng độ CRH tăng thì ACTH được
bài tiết nhiều ngược lại khi vắng mặt CRH, tuyến yên chỉ bài tiết một lượng rất
ít ACTH.
- Do tác
dụng điều hoà ngược âm tính và dương tính của cortisol
- Nồng
độ ACTH còn được điều hoà theo nhịp sinh học. Trong ngày, nồng độ ACTH cao nhất
vào khoảng từ 6-8 giờ sáng sau đó giảm dần và thấp nhất vào khoảng 23 giờ rồi
lại tăng dần về sáng.
Bình
thường nồng độ ACTH trong huyết tương vào buổi sáng khoảng 10-50 pg/ml khi bị
stress nồng độ tăng rất cao có thể lên tới 600 pg/ml. Ở người Việt Nam trưởng
thành (lấy máu lúc 8 giờ 30 sáng trên nam khoẻ mạnh) nồng độ ACTH là 9,7773 ± 4,599 pg/ml.
3.2.4.
Hormon kích thích tuyến sinh dục: FSH và LH
3.2.4.1.
Bản chất hoá học: Cả FSH và LH đều là
glycoprotein. FSH được cấu tạo bởi 236 acid amin với trọng lượng phân tử
32.000, còn LH có 215 acid amin và trọng lượng phân tử là 30.000.
3.2.4.2. Tác dụng
- Tác dụng lên tuyến sinh dục nam (tinh hoàn).
+ FSH
· Kích thích ống sinh tinh phát triển.
· Kích thích tế bào Sertoli nằm ở thành ống sinh tinh
phát triển và bài tiết các chất tham gia vào quá trình sản sinh tinh trùng.
+ LH
· Kích thích tế bào kẽ Leydig (nằm giữa các ống sinh
tinh) phát triển.
· Kích thích tế bào kẽ Leydig bài tiết testosteron.
- Tác
dụng trên tuyến sinh dục nữ (buồng trứng).
+ FSH
· Kích thích các noãn nang phát triển đặc biệt là kích
thích tăng sinh lớp tế bào hạt để từ đó tạo thành lớp vỏ (lớp áo) của noãn
nang.
+ LH
· Phối hợp với FSH làm phát triển noãn nang tiến tới
chín.
· Phối hợp với FSH gây hiện tượng phóng noãn.
· Kích thích những tế bào hạt và lớp vỏ còn lại phát
triển thành hoàng thể.
· Kích thích lớp tế bào hạt của noãn nang và hoàng thể
bài tiết estrogen và progesteron.
3.2.4.3.
Nồng độ FSH và LH
Hai
hormon FSH và LH chỉ bắt đầu được bài tiết từ tuyến yên của trẻ em ở lứa tuổi
9-10 tuổi. Lượng bài tiết hai hormon này tăng dần và có mức cao nhất vào tuổi
dậy thì.
Bình
thường nồng độ FSH và LH ở nữ dao động trong chu kỳ kinh nguyệt (CKKN) còn ở
nam giới thì không thấy hiện tượng này. Nồng độ hai hormon này ở người Việt Nam
được ghi trong bảng dưới đây.
3.2.4.4.
Điều hoà bài tiết
- Do tác
dụng kích thích của hormon vùng dưới đồi GnRH
- Do tác
dụng điều hoà ngược của hormon sinh dục: Testosteron, estrogen, progesteron.
Khi các hormon này tăng thì ức chế tuyến yên và ngược lại nếu nồng độ các
hormon này giảm sẽ kích thích tuyến yên bài tiết nhiều FSH và LH.
Bảng
13.1. Nồng độ LH và FSH ở phụ nữ Việt Nam.
LH (IU/l)
|
FSH (IU/l)
|
|
GĐ I của CKKN
|
3,94 - 7,66
|
1,45 - 2,33
|
Nồng độ đỉnh
|
44,12 - 59,60
|
8,87 - 11,43
|
Ngày xuất hiện đỉnh
|
16,54 ± 3,86
|
16,06 ± 2,89
|
GĐII của CKKN
|
2,44 - 4,009
|
0,43 - 0,84
|
Nam giới
|
2,90 ± 2,12
|
4,60 ± 1,91
|
3.2.5.
Hormon kích thích bài tiết sữa - Prolactin (PRL)
3.2.5.1.
Bản chất hoá học: Prolactin là một
hormon protein có 198 acid amin với trọng lượng phân tử 22.500.
3.2.5.2.
Tác dụng
Prolactin
có tác dụng kích thích bài tiết sữa trên tuyến vú đã chịu tác dụng của estrogen
và progesteron.
Prolactin
bình thường được bài tiết với nồng độ rất thấp nhưng khi người phụ nữ có thai,
nồng độ prolactin được bài tiết tăng dần từ tuần thứ 5 của thai nhi cho tới lúc
sinh. Nồng độ prolactin trong thời kỳ này tăng gấp 10-20 lần so với bình thường.
Tuy nhiên do estrogen và progesteron có tác dụng ức chế bài tiết sữa nên trong
khi có thai mặc dù nồng độ prolactin rất cao nhưng lượng sữa được bài tiết chỉ
khoảng vài mililit mỗi ngày. Ngay sau khi đứa trẻ được sinh ra, cả hai hormon
estrogen và progesteron giảm đột ngột tạo điều kiện cho prolactin phát huy tác
dụng tiết sữa.
3.2.5.3.
Điều hoà bài tiết
Ở người
Việt Nam bình thường, nồng độ prolactin ở nam giới vào khoảng 110-510 và ở nữ
giới là 80- 600 mU/l. Khi có thai nồng độ tăng cao, sau khi sinh vài tuần nồng
độ prolactin trở lại mức cơ sở nếu không cho con bú, nếu cho con bú nồng độ
prolactin vẫn cao. Sự bài tiết prolactin được điều hoà dưới ảnh hưởng của
hormon vùng dưới đồi và một số yếu tố khác.
- Vai
trò của hormon vùng dưới đồi: Khác với các hormon khác của tuyến yên chủ yếu
chịu tác dụng kích thích của hormon vùng dưới đồi, prolactin lại chịu tác dụng
ức chế mạnh của PIH được bài tiết từ vùng dưới đồi. Khi tổn thương vùng dưới
đồi hoặc tổn thương hệ mạch cửa dưới đồi - yên sự bài tiết prolactin tăng lên
trong khi các hormon khác của tuyến yên lại giảm đi.
-
Dopamin được bài tiết từ nhân cung (arcuate nuclei) của vùng dưới đồi có tác
dụng ức chế bài tiết prolactin để duy trì một nồng độ thấp trong tình trạng
bình thường. Khi đang cho con bú dopamin lại kích thích bài tiết prolactin.
- TRH
ngoài tác dụng giải phóng hormon TSH nó còn là hormon có tác dụng mạnh trong
việc kích thích tuyến yên bài tiết prolactin.
-
Prolactin được bài tiết khi có các kích thích trực tiếp vào núm vú (động tác
mút vú của trẻ).
3.3.
Các hormon thuỳ sau tuyến yên
Hai
hormon được bài tiết từ thuỳ sau tuyến yên có nguồn gốc từ vùng dưới đồi. Chúng
được bài tiết từ các nơron mà thân khư trú ở nhân cạnh não thất và nhân trên
thị. Sau khi được tổng hợp chúng được vận chuyển dọc theo sợi trục đến chứa ở
các bọc nhỏ nằm trong tận cùng thần kinh khư trú ở thuỳ sau tuyến yên. Hai
hormon đó là hormon oxytocin và ADH (Antidiuretic Hormone).
3.3.1.
Hormon ADH
3.3.1.1.
Bản chất hoá học: ADH hay còn gọi là
vasopressin là một peptid có 9 acid amin.
3.3.1.2.
Tác dụng
- Với
một lượng rất nhỏ chỉ 2 ng ADH khi tiêm cho người sẽ làm giảm bài tiết nước
tiểu do ADH có tác dụng làm tăng tái hấp thu nước ở ống lượn xa và ống góp. Nếu
không có ADH, ống góp và ống lượn xa hầu như không tái hấp thu nước làm cho một
lượng lớn nước mất đi qua đường nước tiểu. Ngược lại, với sự có mặt của ADH
tính thấm nước của ống lượn xa và ống góp tăng lên nhiều lần, nước được tái hấp
thu trở lại cơ thể làm cho nước tiểu được cô đặc.
- Với
nồng độ cao, ADH có tác dụng làm co mạnh các tiểu động mạch ở toàn cơ thể do đó
làm tăng huyết áp. Chính vì lý do này mà ADH còn có tên thứ hai là vasopressin.
3.3.1.3.
Điều hoà bài tiết
- Điều
hoà bằng áp suất thẩm thấu
Khi dịch
thể đậm đặc (áp suất thẩm thấu tăng), nhân trên thị bị kích thích, các tín hiệu
kích thích sẽ truyền đến thuỳ sau tuyến yên và gây bài tiết ADH. ADH được máu
đưa đến tế bào làm tăng tính thấm đối với nước của tế bào ống thận đặc biệt ống
góp do vậy hầu hết nước được tái hấp thu trong khi đó các chất điện giải vẫn
được tiếp tục đưa ra nước tiểu do đó nước tiểu được cô đặc.
- Điều
hoà bằng thể tích máu
Thể tích máu
giảm là một tác nhân mạnh gây bài tiết ADH (vasopressin). Tác dụng này đặc biệt
mạnh khi thể tích máu giảm từ 15- 25%, khi đó nồng độ ADH có thể tăng tới 50
lần cao hơn bình thường.
3.3.2.
Oxytocin
3.3.2.1.
Bản chất hoá học: Oxytocin cũng là
một peptid có 9 acid amin, chỉ có acid amin thứ 8 khác với phân tử ADH (thay
arginin bằng leucin).
3.3.2.2. Tác dụng
- Tác dụng lên tử cung.
Oxytocin
có tác dụng co tử cung mạnh khi đang mang thai đặc biệt càng gần cuối thời kỳ
có thai tác dụng co tử cung của oxytocin càng mạnh. Vì tác dụng này mà nhiều
người cho rằng oxytocin có liên quan đến cơ chế đẻ. Trên một số loài động vật
nếu không có oxytocin động vật này không đẻ được. Ở người nồng độ oxytocin tăng
trong khi đẻ đặc biệt tăng trong giai đoạn cuối. Ở những người đẻ khó do cơn co
tử cung yếu người ta thường tiêm truyền
oxytocin để làm tăng cơn co tử cung (đẻ chỉ huy).
- Tác
dụng bài xuất sữa.
Oxytocin
có tác dụng co các tế bào biểu mô cơ (myoepithelial cells) là những tế bào nằm
thành hàng rào bao quanh nang tuyến sữa. Những tế bào này co lại sẽ ép vào nang
tuyến với áp lực 10 – 20 mmHg và đẩy sữa ra ống tuyến, khi đứa trẻ bú thì nhận
được sữa. Tác dụng này của oxytocin được gọi là bài xuất sữa, khác với tác dụng
gây bài tiết sữa của PRL.
3.2.3.
Điều hoà bài tiết
Bình
thường nồng độ oxytocin huyết tương là 1 - 4 pmol/l. Oxytocin được bài tiết do
kích thích cơ học và tâm lý.
- Kích
thích trực tiếp vào núm vú: Chính động tác mút núm vú của đứa trẻ là những tín
hiệu kích thích được truyền về tuỷ sống rồi vùng dưới đồi làm kích thích các
nơron ở nhân cạnh não thất và nhân trên thị. Những tín hiệu này được truyền
xuống thuỳ sau tuyến yên để gây bài tiết oxytocin.
- Kích
thích tâm lý hoặc kích thích hệ giao cảm.
Vùng
dưới đồi luôn nhận được các tín hiệu từ hệ limbic do vậy tất cả những kích
thích tâm lý hoặc hệ giao cảm có liên quan đến hoạt động cảm xúc đều có ảnh
hưởng đến vùng dưới đồi làm tăng bài tiết oxytocin và do vậy tăng bài xuất sữa.
Tuy nhiên nếu những kích thích này quá mạnh hoặc kéo dài thì có thể ức chế bài
tiết oxytocin và làm mất sữa ở các bà mẹ đang nuôi con.
3.4.
Rối loạn hoạt động tuyến yên
3.4.1.
Suy giảm tuyến yên toàn bộ
Thuật
ngữ suy giảm tuyến yên toàn bộ được dùng để chỉ tình trạng giảm bài tiết tất cả
các hormon tuyến yên. Tình trạng này có thể do nguồn gốc bẩm sinh cũng có thể
do mắc phải sau này.
3.4.1.1.
Bệnh lùn tuyến yên
Hầu hết
các trường hợp lùn đều do thiếu hormon tuyến yên trong thời kỳ niên thiếu. Nhìn
chung cơ thể phát triển cân đối nhưng mức độ phát triển thì giảm rõ rệt, đứa
trẻ 10 tuổi chỉ bằng đứa trẻ 4-5 tuổi,
người 20 tuổi chỉ bằng đứa trẻ 7-10 tuổi.
Người
lùn tuyến yên không có dậy thì và hormon hướng sinh dục không được bài tiết đủ
do vậy chức năng sinh dục không phát triển như người trưởng thành bình thường.
Có khoảng một phần ba những người lùn loại này chỉ giảm bài tiết GH do vậy chức
năng sinh dục vẫn phát triển và vẫn có
khả năng sinh sản.
3.4.1.2.
Bệnh suy tuyến yên ở người lớn
- Suy
tuyến yên toàn bộ ở người lớn thường do một trong ba nguyên nhân sau:
+ U sọ hầu (craniopharingioma).
+ U tế bào không bắt màu ở tuyến yên (chromophobe
tumor).
+ Tắc mạch máu tuyến yên, đặc biệt hay xuất hiện ở các
bà mẹ sau sinh con.
- Các
biểu hiện của suy tuyến yên ở người lớn là biểu hiện của:
+ Suy tuyến giáp.
+ Giảm bài tiết hormon chuyển hoá đường của vỏ thượng
thận.
+ Giảm bài tiết các hormon hướng sinh dục dẫn tới giảm
hoặc mất chức năng sinh dục.
Hình ảnh
chung của bệnh là một tình trạng lờ đờ, chậm chạp do thiếu hormon tuyến giáp;
tăng cân do thiếu tác dụng thoái hoá mỡ của hormon GH, ACTH, vỏ thượng thận và
hormon tuyến giáp; mất tất cả chức năng sinh dục.
Ngoại
trừ chức năng sinh dục, các rối loạn khác có thể được điều trị khỏi nhờ hormon
tuyến giáp và vỏ thượng thận.
3.4.2.
Bệnh khổng lồ
Nguyên
nhân gây bệnh là do các tế bào bài tiết GH tăng cường hoạt động hoặc do u của
tế bào ưa acid. Kết quả là hormon GH được bài tiết quá mức. Tuy nhiên bệnh
khổng lồ chỉ xuất hiện khi tình trạng này xảy ra vào lúc còn trẻ (trước tuổi
trưởng thành).
Biểu
hiện của bệnh là tình trạng phát triển nhanh và quá mức của tất cả các mô trong
cơ thể bao gồm cả xương và các phủ tạng làm cho người đó to cao quá mức bình
thường nên được gọi là người khổng lồ.
Những
người khổng lồ thường bị tăng đường huyết và khoảng 10% có thể bị bệnh đái tháo
đường.
Hầu hết
các bệnh nhân khổng lồ thường chết khi còn trẻ trong tình trạng suy tuyến yên
toàn bộ vì phần lớn nguyên nhân gây khổng lồ là do u tế bào bài tiết GH, khối u
này càng phát triển thì càng chèn ép vào các tế bào bài tiết các hormon khác
của tuyến yên. Tuy nhiên nếu được chẩn đoán kịp thời, bệnh nhân có thể được
ngăn chặn bằng vi phẫu thuật bóc tách khối u hoặc tia xạ.
3.4.3
Bệnh to đầu ngón
Nếu u tế
bào ưa acid xảy ra vào sau tuổi trưởng thành nghĩa là xảy ra khi các sụn ở đầu
xương đã được cốt hoá thì bệnh nhân sẽ không có biểu hiện khổng lồ nhưng các mô
mềm vẫn phát triển và các xương đặc biệt xương dẹt và xương nhỏ có thể dày lên.
Bệnh
nhân bị bệnh này sẽ có hình ảnh đầu to, hàm nhô ra, trán nhô ra, mũi to, môi
dày, lưỡi to và dày, bàn tay to, bàn chân to, phủ tạng to, đôi khi có cả sự
biến dạng cột sống làm lưng gù.
3.4.4.
Bệnh đái tháo nhạt
Tổn
thương vùng dưới đồi hoặc thuỳ sau tuyến yên sẽ làm giảm lượng bài tiết ADH.
Triệu chứng chính của bệnh là đái nhiều nhưng nồng độ các chất điện giải trong
nước tiểu lại rất thấp nên bệnh được gọi là bệnh đái tháo nhạt.
4. TUYẾN GIÁP
4.1.
Đặc điểm cấu tạo
Tuyến
giáp nằm ngay dưới thanh quản và ở trước khí quản, gồm hai thuỳ trái và phải. Ở
người trưởng thành tuyến giáp nặng 20-50g.
Tuyến
giáp gồm những đơn vị cấu tạo được gọi là nang giáp, có đường kính khoảng
100-300 micromet. Những nang này chứa đầy các chất bài tiết được gọi là chất
keo trong lòng nang và được lót bằng một lớp tế bào hình khối là những tế bào
bài tiết hormon vào lòng nang, đáy tế bào tiếp xúc với mao mạch, đỉnh tế bào
tiếp xúc với lòng nang (hình 13.11).
Hình
13.11. Cấu tạo tuyến giáp
Các tế
bào của nang giáp bài tiết hai hormon là triiodothyronin (T3) và
tetraiodothyronin (T4). Những hormon này có nhiều chức năng quan
trọng đặc biệt là chức năng chuyển hoá.
Ngoài ra
cạnh các nang giáp, các tế bào cạnh nang bài tiết ra hormon calcitonin là
hormon tham gia trong chuyển hoá calci.
4.2. Sinh tổng hợp hormon
T3 - T4
Các
hormon tuyến giáp được tổng hợp tại tế bào của nang giáp. Quá trình tổng hợp
hormon trải qua 4 giai đoạn (hình 13.12).
4.2.1.
Bắt iod
Iod của
thức ăn được hấp thu vào máu và được máu đưa đến các tế bào tuyến giáp bằng cơ
chế vận chuyển tích cực đó là bơm iod. Màng đáy tế bào nang giáp có khả năng
đặc biệt đó là khả năng bơm iod vào tế bào nang giáp. Quá trình bơm iod từ máu
vào tế bào nang giáp và giữ iod lại được gọi là quá trình bắt iod.
Dùng iod
phóng xạ (I131) để kiểm tra mức độ bắt iod ta có thể biết được tình trạng hoạt động của
tế bào tuyến giáp. Ở những người ưu năng tuyến giáp hoặc bướu cổ do thiếu cung
cấp iod, độ tập trung iod phóng xạ trong tuyến giáp thường cao.
Một số
ion hoá trị một như perclorat, thyocyanat có khả năng ức chế cạnh tranh sự vận
chuyển iod vào tế bào tuyến giáp do chúng sử dụng cạnh tranh cùng loại bơm với
bơm iod.
Hình 13.12. Sinh tổng hợp và giải phóng T3
- T4
4.2.2.
Oxy hoá ion iodua thành dạng oxy hoá của iod nguyên tử
Tại đỉnh
của tế bào nang giáp, ion iodua được chuyển thành dạng oxy hoá của nguyên tử
iod đó là iod mới sinh (I0) hoặc I3-. Những
dạng này có khả năng gắn trực tiếp với acid amin là tyrosin.
Phản ứng
oxy hoá ion iodua được thúc đẩy nhờ enzym peroxidase và chất phối hợp với enzym
này là hydrogen peroxidase. Khi hệ thống enzym peroxidase bị ức chế hoặc thiếu
peroxidase bẩm sinh thì mức bài tiết T3 , T4 có thể giảm
bằng không. Các thuốc kháng giáp trạng thông thường loại thioure như
methylthiouracil ức chế enzym peroxidase nên ức chế tổng hợp hormon T3
, T4.
4.2.3.
Gắn iod nguyên tử ở dạng oxy hoá vào tyrosin để tạo thành hormon dưới dạng gắn
với thyroglobulin
Trong tế
bào nang giáp, iod ở dạng oxy hoá liên kết với enzym iodinase nên quá trình gắn
với tyrosin xảy ra rất nhanh chỉ trong vài giây đến vài phút để tạo thành 2
dạng tiền chất là monoiodotyrosin (MIT) và diiodotyrosin (DIT).
Hai tiền
chất hormon là MIT và DIT sẽ trùng hợp với nhau để tạo thành hai hormon tuyến
giáp là triiodothyronin (T3) và tetraiodothyronin (T4).
Ngay sau
khi được tạo thành, cả MIT, DIT, T3 và T4 đều gắn với
thyroglobulin và được vận chuyển qua thành tế bào nang giáp để dự trữ trong
lòng nang. Lượng hormon dự trữ trong tuyến giáp đủ để cung cấp trong 2-3 tháng.
Vì vậy khi ngừng trệ quá trình sinh tổng hợp hormon T3 , T4,
ảnh hưởng của thiếu hormon thường chỉ quan sát được sau vài tháng.
4.2.4.
Giải phóng hormon tuyến giáp vào máu
Các giọt
keo có gắn T3 , T4 từ lòng nang được đưa vào tế bào nang
giáp theo kiểu ẩm bào. Ngay sau đó các enzym tiêu hoá được tiết từ các bọc
lysosom thấm vào các túi ẩm bào trộn lẫn với chất keo để tạo thành các túi tiêu
hoá. Dưới tác dụng của các enzym phân giải protein, các phân tử thyroglobulin
sẽ được tiêu hoá và giải phóng T3 -T4 ở dạng tự do. Hai
hormon sẽ được khuếch tán qua màng của tế bào nang giáp để vào các mao mạch nằm
quanh nang giáp.
4.3.
Nhu cầu iod và phân bố iod trong tuyến giáp
Iod của
tuyến giáp được cung cấp từ thức ăn. Nhu cầu iod khoảng 1mg cho một tuần. Ở trẻ
em và phụ nữ có thai nhu cầu iod cao hơn bình thường. Để ngăn ngừa tình trạng
thiếu iod, trong muối ăn có thể cho thêm một lượng iod với tỷ lệ NI/NaCl là
1/100.000.
Lượng
hormon được dự trữ trong tuyến giáp có đủ khả năng duy trì tình trạng bình
thường từ 2-3 tháng. Tổng lượng iod được chứa trong tuyến giáp khoảng 10mg
trong đó 95% lượng iod nằm ngoài tế bào và 5% lượng iod nằm trong tế bào nang
giáp.
4.4.
Nồng độ hormon trong máu:
93% hormon
tuyến giáp ở trạng dạng T4, chỉ có 7% là T3. Tuy nhiên
chỉ sau vài ngày hầu hết T4 sẽ được chuyển thành T3 và T3
chính là dạng hoạt động tại tế bào.
Bảng 13.2. Nồng độ T3 -T4
của người Việt Nam.
Tuổi
|
T4 (nMol/l)
|
T3 (nMol/l)
|
Sơ sinh (máu cuống rốn)
n = 31
|
130,87 ± 22,55
|
0,79 ± 0,28
|
1 -5 tuổi
n = 22
|
122,60 ± 23,66
|
2,49 ± 0,36
|
6 -10 tuổi
n = 30
|
119,24 ± 26,25
|
2,34 ± 0,51
|
11 - 15 tuổi
n = 30
|
112,14 ± 23,54
|
2,13 ± 0,43
|
16 - 60 tuổi
n = 148
|
106,92 ± 21,16
|
2,04 ± 0,41
|
61 - 88 tuổi
n = 30
|
94,31 ± 16,94
|
1,50 ± 0,37
|
4.5. Tác dụng của T3 -T4
4.5.1. Tác dụng lên sự phát triển cơ thể
- Làm tăng tốc độ phát triển.
+ Ở những đứa trẻ bị ưu năng
tuyến giáp, sự phát triển của xương nhanh hơn nên đứa trẻ cao sớm hơn so với
tuổi nhưng đồng thời xương cũng trưởng thành nhanh hơn, cốt hoá sớm hơn làm cho
thời kỳ trưởng thành của đứa trẻ ngắn lại và đứa trẻ có chiều cao của người trưởng
thành sớm hơn.
+ Ở những đứa trẻ bị nhược năng
tuyến giáp, mức phát triển sẽ chậm lại, nếu không được phát hiện và điều trị
sớm đứa trẻ sẽ bị lùn.
- Thúc đẩy
sự trưởng thành và phát triển não trong thời kỳ bào thai và trong vài năm đầu
sau khi sinh. Nếu lượng hormon tuyến giáp không được bài tiết đủ trong thời kỳ
bào thai thì sự phát triển và trưởng thành của não sẽ chậm lại, não của đứa trẻ
sẽ nhỏ hơn bình thường. Nếu không được điều trị bằng hormon tuyến giáp ngay vài
ngày đến vài tuần sau khi sinh thì trí tuệ của đứa trẻ sẽ không phát triển.
4.5.2.
Tác dụng lên chuyển hoá tế bào.
- Hormon
tuyến giáp làm tăng hoạt động chuyển hoá của hầu hết các mô trong cơ thể. Mức
chuyển hoá cơ sở có thể tăng từ 60 - 100% trên mức bình thường nếu hormon tuyến
giáp được bài tiết nhiều.
- Tăng tốc
độ các phản ứng hoá học, tăng tiêu thụ và thoái hóa thức ăn để cung cấp năng
lượng.
- Tăng số
lượng và kích thước các ty thể do đó làm tăng tổng hợp ATP để cung cấp năng lượng cho các hoạt động chức
năng của cơ thể.
Khi nồng độ
hormon tuyến giáp quá cao, các ty thể phồng to sẽ gây ra tình trạng mất cân
xứng giữa quá trình oxy hoá và phosphoryl hoá nên một lượng lớn năng lượng sẽ
thải ra dưới dạng nhiệt chứ không được tổng hợp dưới dạng ATP.
- Tăng vận
chuyển ion qua màng tế bào: Hormon tuyến giáp có tác dụng hoạt hoá enzym ATPase
của bơm Na+ - K+ - ATPase do đó làm tăng vận chuyển cả
ion natri và kali qua màng tế bào của một số mô. Vì quá trình này cần sử dụng
năng lượng và tăng sinh nhiệt nên người ta cho rằng đây chính là một trong
những cơ chế làm tăng chuyển hoá cơ sở của hormon giáp.
4.5.3.
Tác dụng lên chuyển hoá glucid
Hormon
tuyến giáp tác dụng lên hầu như tất cả các giai đoạn của quá trình chuyển hoá
glucid bao gồm:
- Tăng
nhanh thoái hoá glucose ở các tế bào.
- Tăng phân giải glycogen.
- Tăng tạo đường mới.
- Tăng hấp
thu glucose ở ruột.
- Tăng bài
tiết insulin.
Do những
tác dụng trên nên hormon tuyến giáp làm tăng nồng độ glucose trong máu nhưng
chỉ tăng nhẹ.
4.5.4.
Tác dụng lên chuyển hoá lipid
- Tăng
thoái hoá lipid ở các mô mỡ dự trữ do đó làm tăng nồng độ acid béo tự do trong
máu.
- Tăng oxy
hoá acid béo tự do ở mô.
- Giảm
lượng cholesterol, phospholipid, triglycerid ở huyết tương do vậy người bị
nhược năng tuyến giáp kéo dài có thể có tình trạng xơ vữa động mạch. Một trong
những cơ chế làm giảm nồng độ cholesterol của hormon tuyến giáp đó là do làm
tăng tốc độ bài xuất cholesterol qua mật rồi thải ra ngoài theo phân.
Một trong
những cơ chế khác nữa đó là hormon tuyến giáp làm tăng số lượng các receptor
gắn đặc hiệu với lipoprotein tỷ trọng thấp trên tế bào gan do đó làm tăng quá
trình lấy cholesterol ra khỏi máu.
4.5.5. Tác dụng lên chuyển hoá protein
Hormon
tuyến giáp vừa làm tăng tổng hợp protein vừa làm tăng thoái hoá protein. Trong
thời kỳ đang phát triển, tác dụng tăng tổng hợp protein mạnh hơn nên làm tăng
tốc độ phát triển. Ngược lại khi hormon tuyến giáp được bài tiết quá nhiều, các
kho protein dự trữ bị huy động và giải phóng acid amin vào máu.
4.5.6.
Tác dụng lên chuyển hoá vitamin
Do
hormon tuyến giáp làm tăng nồng độ và
hoạt động của nhiều enzym, mà vitamin lại là thành phần cơ bản để cấu tạo enzym
hoặc coenzym nên khi nồng độ hormon giáp tăng sẽ làm tăng nhu cầu tiêu thụ
vitamin. Nếu cung cấp không đủ sẽ gây tình trạng thiếu vitamin.
4.5.7. Tác dụng lên hệ thống tim mạch
- Tác dụng lên mạch máu.
Hormon giáp làm tăng chuyển hoá của hầu hết tế bào do đó
làm tăng mức tiêu thụ oxy đồng thời tăng giải phóng các sản phẩm chuyển hoá
cuối cùng. Chính những chất này có tác dụng giãn mạch ở hầu hết các mô trong cơ
thể do vậy làm tăng lượng máu đặc biệt lượng máu đến da bởi vì cơ thể có nhu
cầu tăng thải nhiệt.
Khi lượng
máu đến mô tăng thì lưu lượng tim cũng tăng đôi khi có thể tăng 60% trên mức
bình thường nếu hormon tuyến giáp được bài tiết quá nhiều.
- Tác dụng lên nhịp tim.
Hormon tuyến giáp có tác dụng tăng nhịp tim rõ hơn là tăng lưu lượng tim. Tác dụng
này có lẽ do hormon tuyến giáp kích thích trực tiếp lên tim do vậy không chỉ
làm tim đập nhanh mà còn làm tim đập mạnh hơn.
Sự đáp ứng nhậy cảm của nhịp tim đối với hormon tuyến
giáp là một dấu hiệu quan trọng mà các nhà lâm sàng hay dùng để đánh giá mức độ
bài tiết hormon tuyến giáp.
- Tác dụng lên huyết áp.
Dưới tác
dụng của hormon tuyến giáp thì huyết áp trung bình không thay đổi. Tuy nhiên do
tim đập nhanh và mạnh hơn nên huyết áp tâm thu có thể tăng từ 10 - 15 mmHg, ngược lại
huyết áp tâm trương lại giảm do giãn mạch ở những người bị ưu năng tuyến giáp.
4.5.8. Tác dụng lên hệ thống thần kinh cơ
- Tác dụng lên hệ thần kinh trung ương.
Hormon
tuyến giáp kích thích sự phát triển cả về kích thước và về chức năng của não.
Nhược năng
tuyến giáp gây tình trạng chậm chạp trong suy nghĩ, ngủ nhiều. Nếu nhược năng
xảy ra lúc mới sinh hoặc vài năm đầu sau khi sinh mà không được điều trị kịp
thời sẽ dẫn đến kém phát triển về trí tuệ.
Ưu năng
tuyến giáp lại gây trạng thái căng thẳng
và khuynh hướng rối loạn tâm thần như lo lắng quá mức, hoang tưởng, mệt mỏi,
khó ngủ.
- Tác dụng lên chức năng cơ.
Tăng nhẹ
hormon tuyến giáp thường làm cơ tăng phản ứng (vigor) nhưng nếu lượng hormon
được bài tiết quá nhiều thì cơ trở nên yếu vì tăng thoái hoá protein của cơ.
Mặt khác nếu thiếu hormon tuyến giáp, cơ trở nên chậm chạp nhất là giãn ra chậm
sau khi co.
Một trong
những dấu hiệu đặc trưng của ưu năng tuyến giáp là run cơ. Đây không phải là
loại run cơ biên độ lớn như run cơ của Parkinson mà là loại run cơ nhanh nhưng
nhẹ với tần số 10-15 lần trong một phút.
Run cơ có
lẽ do các synap của trung tâm điều hoà trương lực cơ ở tuỷ sống được hoạt hoá
quá mức. Run là một dấu hiệu quan trọng để đánh giá mức độ tác dụng của hormon
tuyến giáp đối với hệ thần kinh trung ương.
4.5.9. Tác dụng lên cơ quan sinh dục
Hormon
tuyến giáp cần cho sự phát triển và hoạt động bình thường của cơ quan sinh dục.
Ở nam giới thiếu hormon tuyến giáp có thể mất dục tính hoàn toàn, nhưng nếu bài
tiết quá nhiều lại gây bất lực. Ở nữ giới thiếu hormon tuyến giáp thường gây
băng kinh, đa kinh nhưng thừa hormon tuyến giáp lại gây ít kinh hoặc vô kinh và
giảm dục tính.
4.6.
Điều hoà bài tiết hormon tuyến giáp
- Do nồng
độ TSH của tuyến yên: TSH của tuyến yên kích thích tuyến giáp bài tiết T3,T4 do vậy nếu TSH
tăng thì T3,T4 sẽ được bài tiết nhiều và ngược lại nếu
TSH giảm thì T3,T4 sẽ được bài tiết ít (xem mục 3.2.2).
- Khi bị
lạnh hoặc stress nồng độ T3,T4 sẽ được bài tiết nhiều.
- Cơ chế tự
điều hoà.
+ Nồng độ
iod vô cơ cao trong tuyến giáp sẽ ức chế bài tiết T3,T4 .
+ Nồng độ
iod hữu cơ cao dẫn tới giảm thu nhận iod và do đó làm giảm tổng hợp T3-T4.
4.7. Rối
loạn hoạt động tuyến giáp
4.7.1.
Ưu năng tuyến giáp (cường giáp)
Người bị
hội chứng cường giáp thường có các biểu hiện như bướu cổ, lồi mắt (mắt khó khép
mi), tay run, nhịp tim nhanh, hay hồi hộp lo lắng, khó ngủ, sút cân, chuyển hoá
cơ sở tăng, độ tập trung I131 cao, thời gian phản xạ gân gót giảm,
nồng độ hormon T3,T4 giảm, nồng độ TSI (Thyroid
Stimulating Immunoglobulin) tăng.
Nhìn chung
các dấu hiệu lâm sàng của hội chứng cường giáp đều do nồng độ T3-T4
gây ra trừ dấu hiệu lồi mắt.
Dấu hiệu
lồi mắt chỉ gặp ở 1/3 số bệnh nhân bị cường giáp. Nguyên nhân lồi mắt là do sự
phù nề ở mô sau hốc mắt và giảm sản cơ ngoài ổ mắt. Yếu tố nào gây ra tình
trạng trên cho đến nay còn chưa rõ. Ở những bệnh nhân này người ta tìm
thấy các globulin miễn dịch và có sự
tương xứng giữa nồng độ globulin miễn dịch này với nồng độ TSI. Nguyên nhân gây
cường giáp cũng như triệu chứng lồi mắt là do quá trình tự miễn.
4.7.2.
Nhược năng tuyến giáp (suy giáp)
Các biểu
hiện của suy giáp thường ngược lại với cường giáp. Bệnh nhân bị suy giáp thường chậm chạp, nhịp
tim chậm, ngủ nhiều và hay buồn ngủ, chuyển hoá cơ sở giảm, giảm chức năng dinh
dưỡng gây rụng tóc, da có vảy và có phù.
Dấu hiệu
phù của người suy giáp được gọi là phù niêm vì đây là dạng phù do ứ đọng một
lượng lớn acid hyaluronic và chrondoitin sulfat kết hợp với protein trong
khoảng kẽ do đó làm tăng dịch trong khoảng kẽ.
Ngoài các
biểu hiện trên những người bị suy giáp có thể bị xơ vữa động mạch do thiếu T3-T4
nên làm tăng nồng độ cholesterol trong máu, đặc biệt những bệnh nhân bị suy
giáp thể Myxedema (thiếu hầu như toàn bộ chức năng tuyến giáp) dễ có biểu hiện
này.
Cũng như
cường giáp, nguyên nhân chủ yếu của suy giáp cũng là do quá trình tự miễn.
4.7.3.
Bệnh đần độn bẩm sinh
Đần độn là
tình trạng xảy ra do suy giáp nặng trong thời kỳ bào thai, sơ sinh và trẻ em.
Khi còn trong bụng mẹ do thai nhận được hormon của mẹ nên thai vẫn có thể phát
triển bình thường. Sau khi sinh vài tuần cho đến vài năm đầu nếu không được
phát hiện và điều trị kịp thời đứa trẻ kém phát triển về thể chất và trí tuệ.
Nếu được điều trị, đứa trẻ có thể phát triển về thể chất bình thường nhưng trí
tuệ vẫn chậm do chậm phát triển, chậm phân nhánh, chậm myelin hoá các nơron của
hệ thần kinh trung ương (ngoại trừ được điều trị rất sớm ngay vài tuần sau khi
sinh).
Ở những đứa
trẻ này, sự phát triển của khung xương bị ức chế mạnh hơn so với mô mềm do đó
tạo ra sự mất cân đối về hình thể. Bệnh nhân thường có hình dạng thấp lùn nhưng
béo, đôi khi lưỡi to đến mức khó nuốt, khó thở.
4.7.4.
Bệnh bướu cổ do thiếu iod
Nguyên nhân
chủ yếu là do thiếu iod trong thức ăn hoặc nước uống. Lượng iod cung cấp hàng
ngày không đủ để tổng hợp hormon tuyến giáp nhưng quá trình tổng hợp
thyroglobulin vẫn bình thường. Lượng hormon được bài tiết không đủ để ức chế
bài tiết TSH làm cho tuyến giáp nở to và lượng thyroglobulin được sản xuẩt ra
quá nhiều. Tuyến giáp có thể nặng tới 300 - 500 gam.
Thời kỳ đầu
của bệnh, chức năng tuyến giáp vẫn bình thường nhưng nếu bệnh kéo dài không
được điều trị sẽ dẫn tới suy giáp. Phòng ngừa và điều trị bằng cách cho uống,
ăn muối iod, cho tiêm dầu iod.
4.8.
Hormon calcitonin
4.8.1.
Nguồn gốc, bản chất hoá học
Calcitonin
do các tế bào cạnh nang của tuyến giáp bài tiết hoặc còn được gọi là tế bào C.
Đây là những tế bào nằm ở mô kẽ xen giữa các nang giáp, những tế bào này chỉ
chiếm 0,1% tuyến giáp.
Calcitonin
là một polypeptid có 32 acid amin với trọng lượng phân tử là 3.400.
4.8.2.
Tác dụng của calcitonin
- Tác dụng
nhanh của calcitonin là làm giảm hoạt động của các tế bào huỷ xương do đó
chuyển dịch sự cân bằng theo hướng lắng đọng các muối calci ở xương. Tác dụng
này đặc biệt quan trọng ở những động vật còn non và trẻ em vì ở lứa tuổi này
quá trình thay đổi trong xương ( giữa lắng đọng và tiêu huỷ) thường xảy ra
nhanh chóng.
- Tác dụng
thứ phát và kéo dài hơn đó là tác dụng làm giảm hình thành các tế bào huỷ xương
mới.
-
Calcitonin cũng có tác dụng điều hoà tái hấp thu ion calci ở ống thận và hấp
thu ion calci ở ruột, tác dụng này yếu và ngược với tác dụng của parathormon.
Vì những
tác dụng đã trình bày ở trên, calcitonin có tác dụng làm giảm nồng độ ion calci
huyết tương nhưng tác dụng này rất yếu ở người trưởng thành vì hai lý do:
+ Tác dụng giảm nồng độ ion calci huyết tương của
calcitonin đã kích thích mạnh tuyến cận giáp bài tiết parathormon.
+ Ở người trưởng thành tốc độ đổi mới xương hàng ngày
thường rất chậm.
4.8.3.
Điều hoà bài tiết calcitonin
Sự bài tiết
calcitonin được điều hoà bởi nồng độ ion calci trong huyết tương. Khi nồng độ
ion calci tăng khoảng 10% thì ngay tức khắc calcitonin được bài tiết tăng
gấp 2 - 3 lần. Tuy nhiên cơ chế
này thường yếu và xảy ra trong một thời gian ngắn.
5. TUYẾN THƯỢNG THẬN
5.1. Đặc
điểm cấu tạo
Tuyến
thượng thận gồm hai tuyến nhỏ nằm ở phía trên hai thận. Mỗi tuyến nặng khoảng 4
gam (hình 13.13). Tuyến thượng thận được cấu tạo bởi hai phần riêng biệt
là phần vỏ thượng thận và phần tuỷ thượng thận.
Tuỷ thượng
thận nằm ở phần trung tâm của tuyến và chiếm khoảng 20% trọng lượng tuyến. Có
thể coi hai tuỷ thượng thận như hai hạch giao cảm lớn trong đó các nơron mất
sợi trục và trở thành tế bào bài tiết. Chức năng của tuỷ thượng thận liên quan
với hoạt động của hệ thần kinh giao cảm, các hormon của chúng được bài tiết
nhiều khi hệ thần kinh giao cảm bị kích thích. Những hormon này gây ra tác dụng
giống tác dụng của hệ thần kinh giao cảm.
Phần vỏ
thượng thận được cấu tạo bởi ba lớp riêng biệt đó là lớp cầu, lớp bó và lớp
lưới (hình 13.14): Lớp cầu là lớp tế bào rất mỏng nằm ở vùng ngoài cùng.
Lớp này tiết các hormon vỏ chuyển hoá muối nước mà đại diện là aldosteron. Lớp
thứ hai là lớp bó nằm ở giữa và lớp lưới nằm ở sát phía trong cùng. Cả hai lớp
này bài tiết cortisol và các hormon khác thuộc nhóm hormon vỏ chuyển hoá đường
và hormon sinh dục (androgen).
Tuyến
thượng thận tuy nhỏ như vậy nhưng lại là tuyến sinh mạng. Trên động vật thực
nghiệm nếu nạo bỏ hai tuỷ thượng thận, con vật sẽ rối loạn huyết áp một thời
gian rồi trở lại bình thường nhưng nếu loại bỏ hai vỏ thượng thận con vật sẽ
chết trong tình trạng rối loạn điện giải và stress.
Hình
13.13. Vị trí và sự cung cấp máu của hai tuyến thượng thận
5.2. Vỏ
thượng thận
5.2.1.
Bản chất hoá học và phân loại hormon vỏ
thượng thận
Các hormon
vỏ thượng thận đều là hợp chất steroid. Chúng đều có một nhân chung là nhân
sterol hay cyclopentanoperhydrophenanthren. Nhân này gồm ba vòng sáu cạnh và
một vòng năm cạnh.
Hormon vỏ
thượng thận được chia làm hai nhóm:
- Nhóm 19
carbon có nhân cơ bản là androstan. Các hormon sinh dục có nguồn gốc từ vỏ
thượng thận thuộc nhóm này.
- Nhóm 21
carbon có nhân cơ bản là pregnan bao gồm các hormon vỏ chuyển hoá đường và
chuyển hoá muối nước.
Hơn 30
loại hormon được tách chiết từ tuyến vỏ thượng thận. Tất cả các hormon
này đều được tổng hợp từ những mẩu acetat theo con đường cholesterol, qua chặng
trung gian là pregnenolon và progesteron và từ đó được hydrat hoá ở vị trí C11,
C17, C21 để tạo thành các hormon.
Dựa vào cấu
tạo và tác dụng chính, các hormon vỏ thượng thận được phân chia thành ba nhóm
trong đó hai nhóm đóng vai trò quan trọng là nhóm hormon vỏ chuyển hoá đường mà
quan trọng nhất là cortisol và nhóm hormon vỏ chuyển hoá muối nước đại diện là
aldosteron.
- Nhóm
hormon vỏ chuyển hoá đường gồm:
+ Cortisol: Tác dụng rất mạnh, chiếm 95% tổng hoạt
tính.
+ Corticosterol: Tác dụng yếu hơn cortisol, chiếm 4%
tổng hoạt tính.
+ Cortison: Là hormon tổng hợp, tác dụng cũng mạnh gần
như cortisol.
+ Prednisolon: Là hormon tổng hợp, tác dụng mạnh gấp
bốn lần cortisol.
+ Dexamethason: Là hormon tổng hợp, tác dụng mạnh gấp
30 lần cortisol.
- Nhóm hormon vỏ chuyển hoá muối nước gồm:
+ Aldosteron: Tác dụng rất mạnh, chiếm 90% tổng hoạt
tính của nhóm.
+ Desoxycorticosteron: Hoạt tính yếu và lượng bài tiết
rất ít.
+ Corticosteron: Có tác dụng chuyển hoá muối nước yếu.
+ Cortisol: Được bài tiết một lượng lớn nhưng tác dụng
lên chuyển hoá muối nước rất yếu.
+ Cortison: Là hormon tổng hợp, tác dụng lên chuyển
hoá muối nước yếu.
- Nhóm hormon sinh dục: Androgen.
Hình
13.14. Cấu tạo tuyến thượng thận
5.2.2.
Vận chuyển và thoái hoá hormon vỏ thượng thận
Trong máu
cortisol gắn chủ yếu với globulin, phức hợp này thường được gọi là transcortin.
Chỉ một lượng nhỏ gắn với albumin. 94% lượng cortisol trong máu nằm dưới dạng
kết hợp, chỉ 6% ở dạng tự do.
Khác với
cortisol, androgen chỉ gắn lỏng lẻo với protein huyết tương và khoảng 50% ở
dạng tự do.
Ở mô đích
cortisol tác dụng và bị phá huỷ trong vòng 1-2 giờ còn aldosteron thì trong
khoảng 30 phút.
Nồng độ
aldosteron trong máu bình thường khoảng 6 ng/dl, mức bài tiết trong 24 giờ là
150 - 250 mg. Nồng độ cortisol
khoảng 12 mg/dl và mức bài tiết
trung bình là 15 - 20
mg/ngày. Trên người Việt Nam trưởng thành nồng độ cortisol khoảng 150 - 600 nmol/l.
5.2.3.
Tác dụng và điều hoà bài tiết cortisol
5.2.3.1.
Tác dụng lên chuyển hoá glucid
- Tăng tạo
đường mới ở gan (tạo glucose từ nguồn nguyên liệu là protein và các chất khác).
Mức tăng tạo đường mới dưới tác dụng của cortisol có thể tăng từ 6-10 lần. Tác
dụng này là kết quả của hai tác dụng do cortisol gây ra:
+ Cortisol
làm tăng tất cả các enzym tham gia trong quá trình chuyển hoá acid amin thành
glucose ở gan.
+ Cortisol
làm tăng huy động acid amin từ các mô ngoài gan mà chủ yếu từ cơ vào huyết
tương rồi vào gan, do vậy thúc đẩy quá trình tạo glucose ở gan. Kết quả là làm
tăng dự trữ glucose ở gan.
- Giảm tiêu
thụ glucose ở tế bào: Cortisol làm giảm nhẹ mức tiêu thụ glucose của tế bào
khắp mọi nơi trong cơ thể. Cơ chế của hiện tượng này cho đến nay vẫn chưa rõ.
Do một mặt
làm tăng tạo đường mới, một mặt là giảm tiêu thụ glucose ở tế bào nên cortisol
có tác dụng làm tăng đường huyết và có thể gây ra đái tháo đường.
5.2.3.2. Tác dụng lên chuyển hoá protein
- Giảm protein của tế bào: Một trong những tác dụng chính
của cortisol lên hệ thống chuyển hoá của cơ thể đó là giảm dự trữ protein của
tất cả các tế bào trong cơ thể trừ tế bào gan. Tác dụng này là do cortisol một
mặt làm tăng thoái hoá protein ở tế bào, mặt khác làm giảm sinh tổng hợp
protein.
- Tăng vận
chuyển acid amin vào tế bào gan đồng
thời làm tăng hàm lượng enzym tham gia vào quá trình sinh tổng hợp protein ở
gan do đó cortisol làm tăng sử dụng acid amin ở tế bào gan cho quá trình sinh
tổng hợp protein và tạo đường mới.
- Tăng nồng
độ acid amin huyết tương đồng thời làm giảm vận chuyển acid amin vào tế bào trừ
gan.
5.2.3.3. Tác dụng lên chuyển hoá lipid
- Tăng
thoái hoá lipid ở các mô mỡ do đó làm tăng nồng độ acid béo tự do trong huyết
tương.
- Tăng oxy
hoá acid béo tự do ở tế bào để tạo năng lượng.
Mặc dù tác
dụng của cortisol là làm tăng thoái hóa lipid nhưng khi cortisol được bài tiết
quá nhiều thì lại có tác dụng làm tăng lắng đọng mỡ và rối loạn phân bố mỡ trong
cơ thể. Trong những trường hợp này mỡ thường ứ đọng ở mặt, vùng ngực, bụng. Cơ
chế cho đến nay vẫn chưa rõ, người ta cho rằng có lẽ do cortisol một mặt làm
tăng sự ngon miệng mặt khác tăng bài tiết insulin.
5.2.3.4.
Tác dụng chống stress
Trong tình
trạng stress, ngay lập tức nồng độ ACTH tăng trong máu, sau đó vài phút sự bài
tiết cortisol cũng tăng lên nhờ đó mà có thể chống lại được các stress và đây
là tác dụng có tính sinh mạng.
Những loại
stress có tác dụng làm tăng nồng độ cortisol thường gặp là chấn thương, nhiễm
khuẩn cấp, quá nóng hoặc quá lạnh, phẫu thuật, tiêm các chất gây hoại tử dưới
da, hầu hết các bệnh gây suy nhược (debilitating), sự căng thẳng thần kinh quá
mức.
Cơ chế
chống stress của cortisol vẫn chưa rõ. Người ta cho rằng có lẽ cortisol huy
động nhanh chóng nguồn acid amin và mỡ dự trữ để cung cấp năng lượng và nguyên
liệu cho việc tổng hợp các chất khác bao gồm glucose là chất rất cần cho mọi tế
bào hoặc một số hợp chất như purin, pyrimidin, creatin phosphat là những chất
rất cần cho sự duy trì đời sống tế bào và sinh sản các tế bào mới.
Một giả
thuyết khác lại cho rằng cortisol làm tăng vận chuyển nhanh dịch vào hệ thống
mạch nên giúp cơ thể chống lại tình trạng shock.
5.2.3.5.
Tác dụng chống viêm
Cortisol có
tác dụng làm giảm tất cả các giai đoạn của quá trình viêm do đó có tác dụng
chống viêm mạnh và trên lâm sàng tác dụng này được ứng dụng nhiều. Tác dụng
chống viêm của cortisol được giải thích bằng hai cơ chế sau:
- Cortisol
làm vững bền màng lysosom do đó lysosom khó phồng căng và khó vỡ. Hầu hết các
enzym phân giải protein được giải phóng ra từ mô viêm và làm tăng phản ứng viêm
đều được dự trữ trong các lysosom. Một khi lysosom khó vỡ thì những sản phẩm
trên sẽ không được bài tiết.
- Cortisol
ức chế enzym phospholipase A2 là enzym tham gia trong quá trình tổng
hợp prostaglandin, leukotrien do vậy làm giảm phản ứng viêm bởi chính hai hợp
chất này gây ra giãn mạch, tăng nhiệt độ, tăng tính thấm của mao mạch.
5.2.3.6.
Tác dụng chống dị ứng
Khi có dị
nguyên xâm nhập vào cơ thể (các dị nguyên này là các kháng nguyên có khả năng
phản ứng đặc hiệu với một loại kháng thể là IgE), phản ứng kết hợp giữa dị
nguyên và kháng thể xảy ra và kéo theo một chuỗi các phản ứng dị ứng.
Một đặc
tính đặc biệt của IgE là có khả năng gắn mạnh với dưỡng bào (mastocytes) và
bạch cầu ưa toan. Khi dị nguyên phản ứng với kháng thể IgE, phức hợp này sẽ gắn
vào bề mặt của dưỡng bào hoặc bạch cầu ưa kiềm và ngay lập tức làm thay đổi
tính thấm của màng tế bào dưỡng bào và bạch cầu ưa kiềm làm cho tế bào này vỡ
và giải phóng các chất có tác dụng giãn mạch, tăng tính thấm của mao mạch như
histamin.
Cortisol
không làm ảnh hưởng đến phản ứng kết hợp giữa dị nguyên và kháng thể nhưng có
tác dụng ức chế giải phóng histamin và do vậy làm giảm hiện tượng dị ứng. Trên
lâm sàng, cortisol thường được dùng cho các trường hợp bị dị ứng do choáng phản vệ.
5.2.3.7.
Tác dụng lên tế bào máu và hệ thống miễn dịch
- Làm giảm bạch cầu ưa toan và bạch cầu lympho.
- Làm giảm kích thước các mô lympho trong cơ thể như
giảm kích thước hạch, tuyến ức.
- Làm giảm sản xuất lympho T và kháng thể do vậy nếu
dùng cortisol kéo dài sẽ gây nhiễm khuẩn, ngược lại dùng cortisol sẽ làm giảm
hiện tượng loại bỏ mảnh ghép trong trường hợp ghép tim, thận và các mô khác.
- Làm tăng sản sinh hồng cầu.
5.2.3.8. Các tác dụng khác
- Tăng bài tiết HCl của dịch vị
do vậy dùng cortisol kéo dài có thể gây viêm loét dạ dày.
- Nồng độ cortisol tăng có thể làm tăng áp lực nhãn
cầu.
- Khi nồng độ cortisol tăng nó sẽ ức chế hình thành
xương bằng cách giảm quá trình tăng sinh tế bào, giảm sinh tổng hợp RNA,
protein, collagen của xương.
5.2.4. Tác dụng và điều hoà bài tiết aldosteron
5.2.4.1. Tác dụng
Thiếu toàn
bộ hormon vỏ thượng thận sẽ dẫn tới chết trong vòng vài ngày đến vài tuần trừ
phi người đó được tiếp muối liên tục hoặc tiêm hormon vỏ chuyển hoá muối nước.
Đây là tác dụng có tính sinh mạng của aldosteron.
- Tăng tái
hấp thu ion natri và tăng bài xuất ion kali ở tế bào ống thận.
Aldosteron
khi đến tế bào ống thận đặc biệt là tế bào ống lượn xa và ống góp sẽ hoạt hoá
hệ gen ở nhân tế bào và làm tăng tổng hợp các enzym và các protein vận tải. Một
trong những enzym tăng một cách đặc biệt đó là Na+ , K+ -
ATPase. Enzym này là thành phần chủ yếu của bơm Na+ - K+
ở màng đáy- bên của tế bào ống thận do đó làm tăng tái hấp thu ion natri và
tăng bài xuất ion kali.
Chính vì cơ
chế tác dụng như đã trình bày ở trên nên aldosteron không gây ra tác dụng ngay
tức khắc mà thường phải sau 30 phút các ARN thông tin mới được tổng hợp và sau
45 phút mức vận chuyển ion natri mới tăng và phải sau nhiều giờ mới đạt hiệu
quả tối đa.
- Tác dụng
lên thể tích dịch ngoại bào và huyết áp động mạch.
Nếu nồng độ aldosteron tăng cao có thể làm tăng thể
tích dịch ngoại bào từ 5-15% và tăng huyết áp động mạch từ 15-25 mmHg.
Ngược lại khi nồng độ aldosteron giảm xuống bằng
không, một lượng lớn ion natri sẽ bị mất qua đường nước tiểu, không chỉ thế mà
cả thể tích dịch ngoại bào cũng giảm. Mặt khác khi thiếu aldosteron, nồng độ
ion kali trong dịch ngoại bào sẽ tăng cao. Khi kali tăng từ 60-100% trên mức
bình thường thì sẽ gây ngộ độc tim, cơ tim không co được do đó không bơm được
máu.
- Tác dụng
của aldosteron đối với tế bào ống tuyến mồ hôi và ống tuyến nước bọt.
Trên tế bào
ống tuyến mồ hôi và ống tuyến nước bọt, aldosteron cũng làm tăng tái hấp thu ion
natri và tăng bài xuất ion kali. Tác dụng này đặc biệt quan trọng khi cơ thể
làm việc trong môi trường nóng. Nhờ có aldosteron mà việc mất muối qua con
đường bay mồ hôi sẽ giảm bớt.
5.2.4.2.
Điều hoà bài tiết
Ba yếu tố
chủ yếu tham gia điều hoà bài tiết aldosteron là:
- Tăng nồng
độ ion kali trong dịch ngoại bào sẽ làm tăng bài tiết aldosteron.
- Tăng hoạt
động của hệ thống renin-angiotensin trong trường hợp mất máu cũng làm tăng bài
tiết aldosteron.
- Tăng nồng
độ ion natri trong dịch ngoại bào làm giảm nhẹ aldosteron.
Trong ba
yếu tố trên thì nồng độ ion kali và hệ thống renin-angiotensin có hiệu lực mạnh
trong điều hoà bài tiết aldosteron. Nồng độ ion kali chỉ cần tăng nhẹ hoặc lưu
lượng máu qua thận giảm đều tăng bài tiết aldosteron lên nhiều lần so với bình
thường.
5.2.5.
Tác dụng của androgen
- Ở nam
giới: Với chức năng bình thường của tuyến sinh dục thì testosteron và
dihydrotestosteron có nguồn gốc vỏ thượng thận chỉ chiếm một lượng nhỏ trong
tổng lượng hormon sinh dục nam do vậy tác dụng sinh học của nó không đáng kể.
Ở nam
trưởng thành, sự bài tiết quá mức của androgen vỏ thượng thận không gây ra biểu
hiện lâm sàng, nhưng ở trẻ con nó sẽ làm dương vật to trước tuổi trưởng thành,
làm phát triển các đặc tính sinh dục thứ phát trước tuổi dậy thì.
- Ở nữ
giới: Trong trường hợp chức năng của tuyến sinh dục nữ bình thường lượng
androgen bình thường do tuyến vỏ thượng thận bài tiết sẽ không gây biểu hiện
bất thường. Tuy nhiên nếu tuyến vỏ thượng thận bài tiết quá nhiều androgen như
trong hội chứng Cushing, u tuyến thượng thận hoặc tăng sản thượng thận bẩm sinh
thì sẽ gây hiện tượng nam hoá.
5.3. Tuỷ
thượng thận
5.3.1.
Sinh tổng hợp hormon tủy thượng thận
Các hormon
của tủy thượng thận được tổng hợp từ L-tyrosin (là một acid amin có trong thức
ăn) theo sơ đồ dưới đây:
TH DDC
L – tyrosin L – DOPA Dopamin
Oxy
hóa Khử
carboxyl
DBH Oxy hóa
PNMT
Adrenalin Noradrenalin
Methyl
hóa
TH: Tyrosin hydroxylase
DDC: Dopa Decarboxylase
DBH: Dopamin b hydroxylase
PNMT: Phenethanolamin – N – Methyl – Transferase
Sơ
đồ 13.1. Sinh tổng hợp hormon tuỷ thượng thận.
Trên lâm
sàng tập hợp ba chất dopamin, adrenalin và noradrenalin được gọi là
catecholamin. Bình thường trong máu khoảng 80% là adrenalin và 20% là
noradrenalin.
5.3.2.
Tác dụng của các hormon tủy thượng thận
Adrenalin
và noradrenalin trong máu khi được đưa đến các cơ quan đích chúng gây ra các
tác dụng hầu như giống tác dụng của hệ thần kinh giao cảm. Điểm duy nhất khác
đó là thời gian tác dụng từ 5-10 phút vì các hormon này thải trừ chậm hơn so
với các hoạt động của hệ thần kinh giao cảm.
5.3.2.1.
Tác dụng của adrenalin
- Trên cơ
tim: Làm tim đập nhanh, làm tăng lực co bóp của cơ tim.
- Trên mạch
máu: Làm co mạch dưới da, giãn mạch vành, mạch não, mạch thận và mạch cơ vân do
đó làm tăng huyết áp tối đa.
- Trên các
cơ trơn khác: Làm giãn cơ trơn ruột non, tử cung, phế quản, bàng quang, giãn
đồng tử.
- Làm tăng
mức chuyển hoá của toàn bộ cơ thể: Làm tăng tiêu thụ oxy và tăng sinh nhiệt.
Chính nhờ tác dụng này mà adrenalin làm tăng hoạt động và sự hưng phấn của cơ
thể.
- Làm tăng
phân giải glycogen thành glucose ở gan và cơ do đó tăng giải phóng glucose vào
máu.
5.3.2.2.
Tác dụng của noradrenalin
Nhìn chung
noradrenalin có tác dụng giống adrenalin nhưng tác dụng trên mạch máu thì mạnh
hơn, nó làm tăng cả huyết áp tối đa và cả huyết áp tối thiểu do làm co mạch
toàn thân. Các tác dụng lên tim, lên cơ trơn đặc biệt là tác dụng lên chuyển
hoá thì yếu hơn adrenalin.
5.3.3.
Cơ chế tác dụng
Bảng
13.3: Đáp ứng chọn lọc của catecholamin tại các mô
Cơ quan hoặc mô
|
Receptor
|
Tác dụng
|
Cơ tim
|
b1
|
Tăng lực co bóp và nhịp
|
Mạch máu
|
a
b2
|
Co mạch
Giãn mạch
|
Thận
|
b
|
Tăng giải phóng renin
|
Ruột
|
a, b
|
Giảm vận động và tăng trương lực cơ thắt
|
Tụy
|
a
b
|
Giảm bài tiết insulin và glucagon
Tăng bài tiết insulin và glucagon
|
Gan
|
b
|
Tăng phân giải glycogen
|
Mô mỡ
|
b
|
Tăng phân giải lipid
|
Hầu hết các mô
|
b
|
Tăng tạo năng lượng
|
Da
|
a
|
Tăng bài tiết mồ hôi
|
Phế quản
|
b2
|
Giãn phế quản
|
Tử cung
|
a
b2
|
Co cơ
Giãn cơ
|
Cũng như
các hormon khác, adrenalin và noradrenalin khi đến tế bào đích, trước tiên là
gắn vào các receptor có trên màng tế bào đích. Phức hợp hormon - receptor hoạt
hoá một chuỗi các phản ứng hóa học tiếp theo xảy ra tại bào tương của tế bào
đích. Tại mô đích có hai loại receptor tiếp nhận adrenalin và noradrenalin đó
là a receptor và b receptor. Loại a và b được chia thành a1, a2, b1, b2. Tác
dụng của hai hormon này lên receptor ở mô đích không giống nhau, do:
-
Noradrenalin kích thích chủ yếu lên a receptor. Tác dụng của nó lên b receptor rất yếu.
- Adrenalin
lại kích thích cả a và b receptor với hiệu quả
tương đương nhau.
Như vậy tác
dụng của hai hormon này lên các cơ quan đích phụ thuộc chủ yếu vào receptor có
ở cơ quan đó.
5.3.4.
Điều hoà bài tiết
Trong điều
kiện cơ sở hai hormon adrenalin và noradrenalin được bài tiết ít nhưng trong
tình trạng stress, lạnh, đường huyết giảm hoặc kích thích hệ giao cảm thì tuyến
tuỷ thượng thận tăng bài tiết cả hai hormon này.
Nồng độ
adrenalin trong máu ở điều kiện cơ sở là 170-520 pmol/l, còn nồng độ
noradrenalin là 0,3 - 28 nmol/l (Phạm Thị Minh Đức và cs, 1998).
5.4. Rối
loạn hoạt động tuyến thượng thận - Bệnh Addison
80% trường
hợp này có lẽ là do hiện tượng tự miễn. Một số trường hợp khác có thể do lao
tuyến thượng thận hoặc do khối u chèn ép. Biểu hiện của bệnh là biểu hiện của
sự thiếu hai hormon aldosteron và cortisol.
- Do thiếu
aldosteron: Giảm nồng độ ion natri trong máu, tăng nồng độ ion kali trong máu,
giảm thể tích dịch ngoại bào. Vì thể tích dịch ngoại bào giảm, thể tích huyết
tương giảm nên số lượng hồng cầu trong một đơn vị thể tích máu tăng lên rõ rệt,
lưu lượng tim giảm và bệnh nhân sẽ chết trong tình trạng shock sau 4 ngày đến 2
tuần nếu không được điều trị bằng aldosteron.
- Do thiếu
cortisol: Giảm nồng độ glucose trong máu, giảm huy động protein và lipid từ các
mô do đó làm giảm nhiều chức năng chuyển hóa khác của cơ thể. Thiếu cortisol
làm cho cơ trở nên yếu, vận động kém, người mệt mỏi và khả năng chống stress
kém.
- Ứ đọng
sắc tố melanin
Ngoài những
biểu hiện do thiếu aldosteron, thiếu cortisol người bị bệnh Addison còn có biểu
hiện rối loạn sắc tố ở da và niêm mạc. Những mảng sắc tố này thường xuất hiện ở
những vùng da mỏng và ở vùng niêm mạc.
Nguyên nhân
gây ra biểu hiện này là do lượng bài tiết cortisol giảm đã gây tác dụng điều
hoà ngược lên vùng dưới đồi và tuyến yên và làm tăng bài tiết ACTH. Chính
hormon ACTH đã kích thích sản xuất nhiều sắc tố melanin và gây ứ đọng thành
mảng sắc tố trên da và niêm mạc.
5.4.2.
Hội chứng Cushing: Hội chứng
Cushing là hội chứng ưu năng tuyến vỏ thượng thận do u tế bào bài tiết
cortisol, u tuyến vỏ thượng thận hoặc u tế bào chế tiết ACTH của tuyến yên.
Người bị
bệnh thường có biểu hiện đặc biệt như ngực, bụng trên béo, tứ chi gầy do có
hiện tượng tăng huy động mỡ ở phần thấp cơ thể nhưng lại gây ứ đọng mỡ ở ngực
và bụng trên. Đi kèm với rối loạn phân bố mỡ của cơ thể, người bệnh còn có biểu
hiện phù đặc biệt thể hiện trên mặt. Người bệnh thường có khuôn mặt căng tròn
đôi khi có mụn trứng cá. Da dễ nứt, cơ yếu do giảm bớt protein và collagen ở da và
cơ. Huyết áp tăng đồng thời có biểu hiện
đái tháo đường. Hầu hết bệnh nhân có biểu hiện loãng xương.
5.4.3.
Hội chứng nam hoá
Hội chứng
nam hoá là do u vỏ thượng thận (u tế bào bài tiết androgen). Bệnh thường gặp ở
trẻ em và thường gặp ở trẻ trai. Từ 3-4 tuổi trẻ đã có dấu hiệu dậy thì như lớn
nhanh; cơ bắp phát triển, giọng nói ồ; mọc trứng cá, lông nách, lông mu; dương
vật to; tuổi xương phát triển nhanh hơn so với tuổi thực.
5.4.4.
Bệnh tăng sản thượng thận bẩm sinh(Congenital Adrenal Hyperplasia -CAH)
Bệnh tăng
sản thượng thận bẩm sinh còn được gọi là hội chứng sinh dục - thượng thận.
Bệnh xuất
hiện do có khuyết tật gen gây thiếu một số enzym tham gia trong quá trình sinh
tổng hợp hormon vỏ thượng thận trong đó hay gặp nhất là thiếu enzym 21b hydroxylase. Do thiếu enzym 21b hydroxylase nên không sản xuất được cortisol và
aldosteron. Nồng độ cortisol giảm đã kích thích tuyến yên tăng bài tiết ACTH.
Dưới tác dụng của ACTH tuyến vỏ thượng thận nở to và tăng tổng hợp hormon sinh
dục nam. Nồng độ androgen tăng làm nam hoá các em gái và dậy thì sớm các em
trai.
5.4.5.
U tủy thượng thận
Nguyên nhân
là do u các tế bào ưa crom của tuỷ thượng thận (pheocromocytoma). U tuỷ thượng
thận là loại u lành tính nhưng nếu không được phẫu thuật cắt bỏ khối u thì bệnh
nhân có thể chết vì tăng huyết áp và suy tim. Các dấu hiệu để chẩn đoán đó là
nồng độ catecholamin trong máu tăng cao và nhìn thấy khối u trên siêu âm hoặc
chụp cắt lớp ổ bụng.
6. TUYẾN TỤY NỘI TIẾT
6.1. Đặc
điểm cấu tạo
Tụy nội
tiết bao gồm các cấu trúc được gọi là các tiểu đảo Langerhans, mỗi tiểu đảo
đường kính chỉ khoảng 0,3 mm. Bao quanh tiểu đảo có nhiều mao mạch (hình
13.15).
Hình
13.15. Cấu tạo của tuyến tụy
Mỗi tiểu
đảo chứa 3 loại tế bào chính là tế bào alpha, beta và delta. Những tế bào này
được phân biệt với nhau bằng cấu tạo hình thái và tính chất bắt màu khi nhuộm.
- Tế bào
beta chiếm tổng số 60% các loại tế bào. Chúng nằm ở phần giữa của mỗi tiểu đảo
và bài tiết insulin.
- Tế bào alpha
chiếm 25%, bài tiết glucagon.
- Tế bào
delta chiếm khoảng 10%, bài tiết somatostatin.
- Một số ít
tế bào khác được gọi là tế bào PP, chúng bài tiết một hormon chưa rõ chức năng
và được gọi là polypeptid của tuỵ.
6.2.
Hormon insulin
6.2.1.
Bản chất hoá học và cấu tạo của phân tử insulin
Insulin là
một protein nhỏ với trọng lượng phân tử 5.808. Nó được cấu tạo bởi hai chuỗi
acid amin có nối với nhau bằng những cầu nối disulfua. Khi hai chuỗi acid amin
này bị tách ra thì hoạt tính sẽ mất.
6.2.2.
Vận chuyển và thoái hoá insulin
Trong máu
insulin hầu như hoàn toàn nằm dưới dạng tự do. Thời gian bán huỷ của insulin là
6 phút và sau 10-15 phút nó mới được bài xuất hoàn toàn ra khỏi máu.
Nồng độ
insulin trung bình lúc đói là 69 pmol/l. Ở người Việt Nam trưởng thành (16-36 tuổi) bình thường nồng độ insulin
lúc đói là 0,178 ± 0, 077 nmol/l.
6.2.3.
Tác dụng của insulin
6.2.3.1.
Tác dụng lên chuyển hoá glucid
- Tăng
thoái hoá glucose ở cơ
Màng tế bào
cơ bình thường chỉ cho glucose khuếch tán qua rất ít trừ phi có tác dụng kích
thích của insulin. Ngoài bữa ăn lượng insulin bài tiết rất ít nên glucose khó
khuếch tán qua màng tế bào cơ. Tuy nhiên khi lao động nặng hoặc luyện tập thì
tế bào cơ có thể sử dụng một lượng lớn glucose mà không cần một lượng insulin
tương ứng vì khi đó có một lý do nào đó
chưa rõ đã làm cho màng tế bào cơ đang vận động tăng tính thấm đối với glucose.
Trường hợp
thứ hai tế bào cơ sử dụng nhiều glucose đó là trong thời gian vài giờ sau bữa
ăn. Lúc này nồng độ glucose trong máu tăng cao, tuyến tuỵ bài tiết một lượng
lớn insulin. Nồng độ insulin tăng đã làm vận chuyển glucose vào tế bào.
- Tăng dự trữ glycogen ở cơ
Nếu sau bữa
ăn mà cơ không vận động thì glucose vẫn được vận chuyển vào tế bào cơ. Lượng
glucose không được sử dụng sẽ được tích trữ lại dưới dạng glycogen và được dùng
khi cần.
- Tăng thu
nhập, dự trữ và sử dụng glucose ở gan:
+ Hầu hết
glucose được hấp thu từ ruột vào máu sau bữa ăn trở thành dạng glycogen dự trữ
hầu như ngay tức khắc tại gan. Khi đói nồng độ glucose giảm trong máu, tuyến
tuỵ sẽ giảm bài tiết insulin, lúc này glycogen của gan sẽ được phân giải thành
glucose làm cho nồng độ glucose trong máu không giảm xuống quá thấp.
+ Khi lượng
glucose được đưa vào tế bào gan quá nhiều thì hoặc là chúng được dự trữ dưới
dạng glycogen như đã trình bày ở trên hoặc là dưới tác dụng của insulin, lượng
glucose thừa này sẽ được chuyển thành acid béo và được chuyển đến mô mỡ dưới
dạng phân tử lipoprotein tỷ trọng thấp và lắng đọng dưới các mô mỡ dự trữ.
- Ức chế
quá trình tạo đường mới
+ Insulin
làm giảm số lượng và hoạt tính của các enzym tham gia vào quá trình tạo đường
mới.
+ Insulin
làm giảm giải phóng acid amin từ các cơ và từ các mô khác vào gan do đó làm
giảm nguyên liệu của quá trình tạo đường mới.
Chính vì
các tác dụng đã nêu ở trên nên insulin là hormon có tác dụng làm giảm nồng độ
glucose trong máu.
6.2.3.2.
Tác dụng lên chuyển hoá lipid
- Tăng tổng
hợp acid béo và vận chuyển acid béo đến mô mỡ
Dưới tác
dụng của insulin, một mặt lượng glucose được sử dụng nhiều cho mục đích sinh năng
lượng nên đã "tiết kiệm" được lipid, mặt khác lượng glucose không
được sử dụng hết sẽ được tổng hợp thành acid béo ở gan và được vận chuyển đến
mô mỡ.
- Tăng tổng
hợp triglycerid từ acid béo để tăng dự trữ lipid ở mô mỡ.
6.2.3.3. Tác dụng lên chuyển hoá protein và sự tăng
trưởng
- Tăng vận
chuyển tích cực các acid amin vào trong tế bào.
- Tăng sao
chép chọn lọc phân tử DNA mới ở nhân tế bào đích để tạo thành RNA thông tin.
- Tăng dịch
mã RNA thông tin tại ribosom để tạo thành các phân tử protein mới.
Do các tác
nhân trên nên insulin có tác dụng tăng tổng hợp và dự trữ protein và do vậy tham gia làm phát triển cơ thể.
6.2.4.
Điều hoà bài tiết insulin
6.2.4.1.
Cơ chế thể dịch
- Nồng độ
glucose: Ở nồng độ glucose trong máu là 80-90 mg/dl, lượng insulin được bài
tiết rất ít. Nếu nồng độ glucose đột ngột tăng lên 2-3 lần cao hơn bình thường
và giữ ở mức này thì insulin được bài tiết nhiều. Nồng độ glucose tăng trên
100mg/dl, insulin có thể được bài tiết tăng từ 10-25 lần so với mức cơ sở. Đây
là một cơ chế điều hoà rất quan trọng nhằm điều hoà nồng độ glucose của cơ thể.
- Nồng độ
acid amin: Một số acid amin đặc biệt arginin, lysin cũng có tác dụng kích thích
bài tiết insulin. Khi nồng độ các acid amin này tăng lên thì insulin cũng được
bài tiết nhiều tuy nhiên nếu chỉ đơn thuần acid amin thì tác dụng kích thích
bài tiết insulin yếu hơn nhiều so với glucose hoặc phối hợp với glucose.
- Nồng độ
hormon do thành ống tiêu hoá bài tiết như gastrin, secretin, cholecystokinin
cũng có tác dụng bài tiết insulin. Những hormon này thường được bài tiết sau
bữa ăn và nhờ có tác dụng làm tăng bài tiết insulin mà chúng tham gia làm cho
glucose và acid amin được hấp thu dễ dàng hơn.
6.2.4.2.
Cơ chế thần kinh
Dưới những
điều kiện nhất định, kích thích thần kinh giao cảm và phó giao cảm có thể làm
tăng bài tiết insulin. Tuy nhiên hình như hệ thần kinh tự chủ ít có vai trò
điều hoà bài tiết insulin trong trường hợp bình thường.
6.3.
Hormon glucagon
6.3.1.
Bản chất hoá học
Glucagon
được bài tiết từ tế bào alpha của tiểu đảo Langerhans khi nồng độ glucose giảm
trong máu. Glucagon có nhiều tác dụng ngược với tác dụng của insulin.
Glucagon là
một polypeptid có 29 acid amin với trọng
lượng phân tử là 3.485
6.3.2.
Tác dụng của glucagon
6.3.2.1.
Tác dụng lên chuyển hoá glucid
- Tăng phân
giải glycogen ở gan: Glucagon có khả năng làm tăng phân giải glycogen ở gan do
đó làm tăng nồng độ glucose máu sau vài
phút.
- Tăng tạo
đường mới ở gan: Ngay cả khi glycogen ở gan đã bị phân giải hết, nếu tiếp tục
truyền glucagon vào cơ thể thì nồng độ glucose máu vẫn tiếp tục tăng. Có hiện
tượng này là do glucagon làm tăng mức vận chuyển acid amin vào tế bào gan rồi
sau đó lại tăng chuyển acid amin thành glucose.
6.3.2.2.
Các tác dụng khác của glucagon
Các tác
dụng ngoài tác dụng tăng nồng độ glucose trong máu của glucagon chỉ xuất hiện
khi glucagon được bài tiết quá mức.
- Tăng phân
giải lipid ở mô mỡ dự trữ thành acid béo để tạo năng lượng do hoạt hoá lipase ở
mô mỡ dự trữ.
- Ức chế
tổng hợp triglycerid ở gan và ức chế vận chuyển acid béo từ máu vào gan. Chính
tác dụng này cũng góp phần làm tăng lượng acid béo cung cấp cho các mô khác để
tạo năng lượng.
6.3.3.
Điều hoà bài tiết
Nồng độ
glucagon huyết tương bình thường là 50-100pg/ml. Sự bài tiết glucagon phụ thuộc
chủ yếu vào nồng độ glucose trong máu, ngoài ra nồng độ acid amin trong máu
hoặc một số yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến bài tiết glucagon.
- Ảnh hưởng
của nồng độ glucose máu: Tác dụng của nồng độ glucose máu lên sự bài tiết
glucagon thì hoàn toàn ngược với insulin. Nồng độ glucose máu giảm xuống dưới
70mg/dl sẽ kích thích tế bào alpha của tiểu đảo Langerhans tăng bài tiết
glucagon lên nhiều lần so với bình thường. Ngược lại nồng độ glucose tăng sẽ
làm giảm bài tiết glucagon.
- Ảnh hưởng
của nồng độ acid amin máu: Nồng độ acid amin tăng cao trong máu đặc biệt alanin
và arginin (ví dụ sau bữa ăn) sẽ kích thích tăng bài tiết glucagon.
- Ảnh hưởng
của vận động: Luyện tập và lao động nặng, nồng độ glucagon có thể tăng từ 4-5
lần. Yếu tố nào làm tăng bài tiết glucagon thì chưa rõ bởi vì trong trường hợp
này nồng độ glucose máu không giảm đến mức đủ để kích thích bài tiết nhiều
glucagon như vậy.
6.4. Rối
loạn hoạt động tuyến tụy nội tiết
6.4.1.
Bệnh đái tháo đường
Hầu hết các
trường hợp bệnh xảy ra là do giảm bài tiết insulin từ tế bào beta của tiểu đảo Langerhans,
đôi khi có thể do tế bào beta tăng nhạy cảm với tác dụng phá huỷ của virus hoặc
có thể do các kháng thể tự miễn chống lại tế bào beta.
Trong một
số trường hợp khác bệnh xuất hiện do yếu tố di truyền ảnh hưởng đến sự sinh sản
tế bào beta.
Bệnh béo
phì cũng đóng một vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của đái tháo đường
lâm sàng vì béo phì làm giảm nhạy cảm của các receptor tiếp nhận insulin tại
các tế bào đích do đó làm giảm hiệu quả thúc đẩy chuyển hoá của insulin như
bình thường.
Bệnh nhân
bị đái tháo đường thường ăn nhiều nhưng vẫn gầy và mệt mỏi do glucose không
được sử dụng ở tế bào nên cơ thể luôn thiếu vắng năng lượng để hoạt động. Bệnh
nhân dễ bị nhiễm khuẩn như bị mụn nhọt ngoài da, lao phổi. Trên lâm sàng người
ta thường dựa vào một hội chứng bao gồm các triệu chứng ăn nhiều, uống nhiều,
đái nhiều, gầy nhanh để chẩn đoán bệnh đái tháo đường. Hội chứng này được gọi
là hội chứng "bốn nhiều". Tuy nhiên hội chứng này thường chỉ gặp ở
typ đái tháo đường phụ thuộc insulin. Ngoài biến chứng dễ bị nhiễm khuẩn, do có
sự rối loạn liên quan giữa chuyển hóa glucid và lipid nên dẫn tới sự lắng đọng
cholesterol ở thành động mạch do đó người bị bênh đái tháo đường có nguy cơ bị
xơ vữa động mạch và các bệnh về mạch mành.
6.4.2. Hạ đường huyết do tăng bài tiết insulin
Bệnh thường do có khối u ở tế bào beta nên lượng
insulin bị bài tiết quá mức đã làm giảm nồng độ glucose trong máu, những bệnh
nhân này hàng ngày cần tiêm tới 1000g glucose. Hội chứng lâm sàng xuất hiện do
thừa insulin được gọi là choáng insulin.
Khi nồng độ
glucose giảm xuống mức 50-70 mg/dl, hệ thần kinh trung ương trở nên bị kích
thích, dấu hiệu thường gặp là rất bồn chồn, run rẩy, vã mồ hôi. Khi nồng độ
glucose trong máu giảm xuống mức 20-50 mg/dl sẽ xuất hiện những cơn co giật và
mất ý thức. Nếu nồng độ glucose tiếp tục giảm nữa bệnh nhân sẽ ngừng co giật
nhưng lại rơi vào trạng thái hôn mê. Lúc này nếu chỉ dựa vào những quan sát lâm
sàng đơn thuần thì sẽ khó phân biệt hôn mê toan huyết do thiếu insulin và hôn
mê hạ đường huyết do thừa insulin. Tuy nhiên kiểu nhịp thở nhanh, sâu, có mùi
aceton sẽ là dấu hiệu quan trọng để phân biệt hai loại hôn mê vì dấu hiệu này
chỉ có ở hôn mê đái tháo đường.
7. TUYẾN CẬN GIÁP
7.1. Đặc
điểm cấu tạo
Bình thường
mỗi người đều có bốn tuyến cận giáp và chúng nằm ngay sau tuyến giáp, 2 tuyến ở
cực trên và 2 tuyến ở cực dưới (hình 13.16). Tuyến cận giáp có kích
thước rất nhỏ, chỉ vào khoảng 6 x 3 x 2 mm.
Khi phẫu
thuật cắt bỏ tuyến giáp thường rất khó phân biệt giữa tuyến giáp và tuyến cận
giáp bằng mắt vì màu sắc của mô hai tuyến này gần như nhau. Bởi vậy cắt bỏ phần
lớn tuyến giáp dễ dẫn đến lấy mất cả 4 tuyến cận giáp. Tuy nhiên nếu chỉ còn
lại phần nhỏ của tuyến cận giáp thì phần này sẽ tăng sinh tế bào để đảm bảo
chức năng của toàn bộ tuyến.
Tuyến cận
giáp ở người trưởng thành bao gồm hai loại tế bào là tế bào chính và tế bào ưa
oxy. Tế bào chính là thành phần cấu tạo chủ yếu của tuyến cận giáp. Tế bào ưa
oxy chỉ có ở người trưởng thành. Chức năng của tế bào chính là bài tiết
parathormon, một hormon có tính sinh mạng. Còn chức năng của tế bào ưa oxy đến
nay vẫn chưa rõ.
7.2. Bản
chất hoá học của parathormon
Parathormon
ở dạng hoạt động trong máu là một polypeptid có 84 acid amin, trọng lượng phân
tử là 9.500.
7.3. Tác
dụng của parathormon (PTH)
PTH đóng
vai trò quan trọng trong điều hoà nồng độ ion calci và ion phosphat của huyết
tương. Dưới tác dụng của PTH nồng độ ion calci huyết tương tăng nhưng ngược lại
nồng độ phosphat lại giảm. PTH thực hiện chức năng này bằng các tác động trên
xương, thận và ruột.
7.3.1. Tác dụng của PTH trên xương
PTH làm
tăng mức giải phóng ion calci từ xương vào máu bằng cách tác động lên các tế
bào xương (osteocyte), tế bào tạo xương (osteoblast) và tế bào huỷ xương
(osteoclast).
- Tác dụng lên tế bào xương và tạo xương.
Màng tế bào
xương và tế bào tạo xương có các receptor tiếp nhận PTH. Phức hợp receptor -
PTH hoạt hoá bơm calci và ion calci được bơm từ dịch xương vào dịch ngoại bào.
- Tác dụng lên tế bào huỷ xương
Trên màng tế bào huỷ xương không có recepor tiếp nhận PTH
nên tế bào huỷ xương không chịu tác dụng kích thích trực tiếp của PTH mà phải
thông qua các "tín hiệu" chuyển từ tế bào xương và tế bào tạo xương.
Do vậy tác dụng trên tế bào huỷ xương của PTH thường xảy ra chậm hơn. Tác dụng
này thường trải qua hai giai đoạn.
+ Hoạt hoá
ngay tức khắc các tế bào huỷ xương có sẵn do đó làm tăng quá trình huỷ xương để
giải phóng ion calci vào dịch xương.
+ Hình
thành các tế bào hủy xương mới. Sau vài ngày, dưới tác dụng của PTH số lượng
của các tế bào huỷ xương tăng lên. Tác dụng này có thể kéo dài vài tháng dưới
ảnh hưởng kích thích của PTH. Do sự huỷ xương mạnh làm cho xương rỗ, yếu nên
lại kích thích sản sinh và hoạt động của tế bào tạo xương để làm nhiệm vụ sửa
chữa các tổn thương ở xương. Như vậy ở thời điểm muộn cả tế bào huỷ xương và
tạo xương đều tăng cả về số lượng và hoạt tính. Tuy nhiên dưới tác dụng của PTH
hiện tượng huỷ xương bao giờ cũng mạnh hơn tạo xương.
7.3.2.
Tác dụng trên thận
- Làm giảm
bài xuất ion calci ở thận.
- Làm tăng tái hấp thu ion calci và magiê ở ống
thận đặc biệt ở ống lượn xa và ống góp.
- Làm giảm
tái hấp thu ion phosphat ở ống lượn gần do đó làm tăng đào thải ion phosphat ra
nước tiểu.
7.3.3.
Tác dụng lên ruột
Do PTH hoạt
hoá quá trình tạo 1,2 dihydroxycholecalciferol từ vitamin D3
(cholecalciferol) nên PTH có những tác dụng lên ruột như sau:
- Tăng tạo
enzym ATPase ở diềm bàn chải của tế bào biểu mô niêm mạc ruột.
- Tăng tạo
chất vận tải ion calci ở niêm mạc ruột.
- Tăng hoạt
tính enzym phosphatase kiềm ở tế bào niêm mạc ruột.
Cả ba tác
dụng trên dẫn tới kết quả là tăng hấp thu ion calci và phosphat ở ruột.
7.4.
Điều hoà bài tiết
Nồng độ PTH
bình thường trong máu vào khoảng dưới 50 pg/ml. PTH được bài tiết nhiều hay ít
tuỳ thuộc vào nồng độ ion calci và phosphat trong máu đặc biệt là nồng độ ion
calci. Chỉ cần giảm nhẹ nồng độ ion calci trong máu thì tuyến cận giáp đã tăng
bài tiết PTH. Nếu tình trạng giảm nồng độ ion calci kéo dài thì tuyến cận giáp
sẽ nở to, đôi khi to gấp 5 lần hoặc hơn. Ngược lại nếu nồng độ ion calci trong
máu tăng thì hoạt động và kích thước của tuyến cận giáp sẽ giảm.
7.5. Rối
loạn hoạt động tuyến cận giáp
7.5.1.
Nhược năng tuyến cận giáp
Khi tuyến
cận giáp bài tiết không đủ lượng PTH do giảm hoạt động chức năng của tuyến hoặc
do thiếu tuyến cận giáp thì sẽ dẫn tới rối loạn hoạt động chức năng do giảm
nồng độ ion calci trong máu.
7.5.1.1.
Dấu hiệu lâm sàng
Nồng độ ion
calci trong máu cần để đảm bảo cho sự hoạt động bình thường của hệ thần kinh
cơ. Khi nồng độ ion calci trong máu giảm, ngưỡng kích thích của sợi thần kinh giảm
xuống hay nói cách khác là sợi thần kinh dễ bị hưng phấn hơn. Chức năng không
bình thường của hệ thần kinh xảy ra đồng thời với cả sợi thần kinh cảm giác và
vận động và do đó làm tăng các đáp ứng thần kinh - cơ.
- Thể nhẹ:
Người ta thường dùng nghiệm pháp Chvosteck và Trousseau để phát hiện dấu hiệu
co cơ.
+ Nghiệm
pháp Chvosteck: Gõ vào điểm giữa của đường nối tai ngoài với mép, nếu nồng độ
ion calci trong máu hạ do thiếu PTH ta sẽ thấy cơ mặt co làm cho mép môi bị kéo
lên phía trên.
+ Nghiệm
pháp Trouseau hay nghiệm pháp bàn tay người đỡ đẻ: Đặt garo ở cánh tay sẽ gây
co cơ tạo ra một bàn tay giống bàn tay người nữ hộ sinh chuẩn bị đón đứa trẻ ra
đời.
- Thể nặng:
Xuất hiện các cơn co cứng cơ (cơn tetani). Hiện tượng co cơ thường xảy ra ở đầu
chi, mặt. Bàn tay, cẳng tay, bàn chân co quắp. Nhưng nguy hiểm nhất là cơ thanh
quản co thắt gây ngừng thở và nếu không được cấp cứu kịp thời bệnh nhân sẽ
chết. Chính vì vậy người ta gọi tuyến cận giáp là tuyến sinh mạng.
7.5.1.2.
Xét nghiệm
Trong
trường hợp này xét nghiệm máu và nước tiểu thấy nồng độ PTH huyết tương giảm,
nồng độ ion calci huyết tương giảm, nồng độ ion phosphat huyết tương tăng, nồng
độ ion ion calci nước tiểu giảm, nồng độ ion phosphat nước tiểu giảm.
7.5.2.
Ưu năng tuyến cận giáp
Ưu năng
tuyến cận giáp thường do có khối u ở một trong số các tuyến cận giáp. Bệnh
thường gặp ở phụ nữ hơn là nam giới và trẻ con bởi vì có thai và cho con bú
thường kích thích tuyến cận giáp và đây là điều kiện để có thể phát triển thành
khối u.
Ưu năng
tuyến cận giáp gây ra sự phá huỷ xương mạnh do các tế bào huỷ xương hoạt động
quá mạnh dẫn tới tăng nồng độ ion calci trong máu.
Do tình
trạng huỷ xương xảy ra mạnh nên xương bị rỗng và dễ gẫy. Đồng thời do lượng ion
calci và phosphat được đào thải qua thận nhiều nên dễ gây ra sỏi thận.
8. CÁC HORMON TẠI CHỖ
8.1.
Định nghĩa và phân loại
Hormon tại
chỗ là những hormon do một nhóm tế bào bài tiết ra, thấm vào máu và có tác dụng
sinh học ở tại chỗ hoặc ở những mô ngay gần nơi chúng được bài tiết. Dựa vào
bản chất hóa học có thể phân hormon ra thành nhiều nhóm:
- Nhóm
hormon có bản chất hoá học là polypeptid, những hormon này chủ yếu do niêm mạc
ống tiêu hoá bài tiết. Ngoài ống tiêu
hoá, não cũng bài tiết ra các hormon này như: Gastrin, secretin, pancreozymin
(cholecystokinin - CCK), VIP, bradykinin, chất P, glucagon, somatostatin,
bombesin, motylin...
- Nhóm
hormon là dẫn xuất của acid amin: Histamin, serotonin, acid gamma amino butyric
(GABA).
- Nhóm hormon có bản chất hoá học không phải là
polypeptid: Prostaglandin, erythropoietin...
8.2. Tác
dụng của một số hormon
8.2.1.
Gastrin: Là polypeptid do niêm
mạc hang vị bài tiết. Ngoài ra tiểu đảo tuỵ, tuyến yên, vùng dưới đồi cũng bài
tiết gastrin.
- Kích
thích bài tiết các dịch tiêu hoá như dịch vị (tăng bài tiết cả enzym pepsin và
HCl), dịch tuỵ (tăng bài tiết cả enzym tuỵ, nước và bicarbonat).
- Làm tăng
tiết một số hormon như insulin, glucagon, secretin.
- Co cơ
trơn dạ dày, ruột, túi mật, cơ thắt tâm vị, giãn cơ Oddi.
- Chức năng
gastrin của não chưa rõ.
8.2.2.
Secretin: Là polypeptid do niêm
mạc tá tràng bài tiết, ngoài ra còn do vùng dưới đồi, thân não, vỏ não bài
tiết.
- Kích thích tuỵ bài tiết dịch tuỵ loãng.
- Kích thích gan sản xuất mật, nước, bicarbonat tăng
nhưng muối mật không tăng.
- Giãn cơ
trơn dạ dày, ruột, cơ thắt tâm vị, cơ Oddi.
- Ức chế
giải phóng gastrin.
- Kích
thích giải phóng insulin.
8.2.3. Cholecystokinin-pancreozymin (CCK): Là polypeptid do niêm mạc tá tràng bài tiết, ngoài
ra còn tìm thấy ở vỏ não, vùng dưới đồi, cấu trúc ...
CÁCH DOWNLOAD: CLICK VÀO LINK Ở TRÊN SAU ĐÓ CLICK VÀO Ô "TÔI KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI MÁY" VÀ TRẢ LỜI 1 CÂU HỎI RỒI CHỜ 3s VÀ BẤM VÀO Ô "GET LINK" VÀI LẦN ĐỂ TẢI VỀ
LINK TẢI BẢN ĐỌC ĐẦY ĐỦ: http://adf.ly/1ff2G3 http://ouo.io/u8eHP2
0 nhận xét:
Post a Comment